Hôm nay1
Tháng này2291
Năm này10075
HUYỆN DI LINH
(Trích từ Báo cáo kinh tế - xã hội năm 2024
của Chi cục Thống kê huyện Di Linh)
Năm 2024, tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn diễn ra gay gắt, xung đột vũ trang, tranh chấp lãnh thổ ở một số nơi kéo dài; tình hình biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp đã tác động tiêu cực đến đời sống xã hội, sản xuất, kinh doanh của địa phương. Tuy nhiên với tinh thần đoàn kết, khắc phục khó khăn, triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt của các cấp ủy, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong huyện, kinh tế - xã hội của huyện Di Linh đã đạt được những kết quả quan trọng và tương đối toàn diện trên các lĩnh vực.
II. Tình hình sản xuất kinh doanh của một số ngành, lĩnh vực chủ yếu
1. Tài chính, tín dụng
Thu, chi ngân sách: Tổng thu ngân sách năm 2024 trên địa bàn thực hiện được 640,3 tỷ đồng, đạt 100% dự toán; trong đó ngân sách huyện quản lý đạt 500 tỷ đồng, tăng 22,1% so với năm 2023. Thuế phí thu được 222 tỷ đồng, bằng 86,8%; thu từ nhà đất được 257 tỷ đồng, tăng 91,9%; thu biện pháp tài chính được 21 tỷ đồng, tăng 6,1% so với năm 2023. Tổng chi ngân sách năm 2024 thực hiện 1.083,5 tỷ đồng, đạt 98,9% kế hoạch, tăng 47% so với năm 2023. Trong đó chi đầu tư phát triển được 167,5 tỷ đồng, tăng 89,6%; chi thường xuyên được 906 tỷ đồng, tăng 39,7% so với năm 2023.
Hoạt động tiền tệ và tín dụng trong năm 2024 phát triển ổn định, đáp ứng được nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và nhân dân. Tổng doanh số cho vay năm 2024 đạt 7.615,9 tỷ đồng, tăng 2,63% so với năm 2023. Dư nợ là 6.085,4 tỷ đồng, tăng 2,6%.
2. Đầu tư xây dựng
Kế hoạch vốn đầu tư công năm 2024 trên địa bàn huyện quản lý là 470,24 tỷ đồng, đầu tư cho 358 công trình. Năm 2024, vốn đầu tư công thực hiện được 351,46 tỷ đồng, đạt 74,7% kế hoạch, tăng 66,5% so với năm 2023. Trong đó: vốn cân đối ngân sách cấp tỉnh thực hiện 213,54 tỷ đồng, đạt 74,9% kế hoạch; vốn trung ương hỗ trợ theo mục tiêu thực hiện 37,27 tỷ, đạt 83,5% kế hoạch; vốn xổ số kiến thiết thực hiện 97,79 tỷ đồng, đạt 71,6% kế hoạch và vốn cân đối ngân sách cấp huyện thực hiện 2,86 tỷ đồng, đạt 72,3% kế hoạch.
3. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
3.1. Sản xuất nông nghiệp
* Trồng trọt:
- Cây hàng năm: Tổng diện tích gieo trồng được 6.156 ha, bằng 97% so với năm 2023. Trong đó: cây lúa nước gieo trồng được 2.934,9 ha, bằng 96,5% so với năm 2023; năng suất lúa bình quân chung cả năm đạt 50,5 tạ/ha, sản lượng lúa năm 2024 dự kiến thu được 14.825 tấn, đạt 90% kế hoạch, bằng 96,3% so với năm 2023. Cây ngô gieo trồng 1.039,3 ha, bằng 97,8% so với năm trước, năng suất bình quân cả năm đạt 54 tạ/ha, sản lượng thu được 5.612 tấn, bằng 97,4% so với năm 2023. Cây rau các loại gieo trồng 1.232,1 ha, bằng 98,9% so với năm 2023, năng suất bình quân chung đạt 180,9 tạ/ha, sản lượng đạt 22.294 tấn, bằng 99,9% so với năm 2023.
- Cây lâu năm: Tổng diện tích cây lâu năm toàn huyện có 59.664,8 ha, bằng 99,4% so với năm 2023 (giảm diện tích một số cây ăn quả trồng xen trong cà phê). Trong đó: cà phê là cây trồng chủ lực trên địa bàn huyện, với diện tích 46.488,9 ha, chiếm 77,9% tổng diện tích cây lâu năm. Diện tích cà phê cho sản phẩm 45.001,5 ha, tăng 0,6% so với năm 2023; năng suất ước đạt 35,6 tạ/ha, sản lượng cà phê ước thu được 160.205 tấn, tăng 0,8% so với năm 2023. Một số loại cây ăn quả chính như: Sầu riêng có 6.171,1 ha; cây Bơ có 2.113,8 ha; cây mắc ca có 2.011,1 ha... Diện tích cây ăn quả cho sản phẩm 6.341 ha, sản lượng quả các loại thu được 82.718 tấn, tăng 13,3% so với năm 2023. Cây Dâu tằm hiện có 820 ha, tăng 5,1% so với năm 2023, năng suất dâu đạt 278 tạ/ha, sản lượng lá dâu thu được 21.143 tấn, tăng 6,3% so với năm 2023.
* Chăn nuôi: Tình hình chăn nuôi trên địa bàn huyện trong năm 2024 đang có xu hướng giảm đàn gia súc (đàn bò và đàn lợn) do hiệu quả kinh tế thu được không cao, đồng thời con giống và chi phí đầu tư cao, thức ăn chăn nuôi tăng mạnh, nguy cơ bệnh dịch còn tiềm ẩn.
Tổng đàn trâu hiện có 991 con, tăng 0,1% so với cùng kỳ 2023; sản lượng thịt trâu hơi năm 2024 đạt 117 tấn, tăng 1% so với năm 2023. Tổng đàn bò hiện có 3.503 con, bằng 97,1% so với năm 2023; trong đó bò sữa có 489 con, bằng 67,7% so với cùng kỳ. Đàn bò sữa giảm mạnh do giá thức ăn tăng cao trong khi giá sữa không tăng. Sản lượng thịt bò hơi năm 2024 đạt 560,9 tấn, bằng 99,5% so với năm 2023; sản lượng sữa tươi đạt 2.267 tấn, bằng 71,4% so với năm 2023. Tổng đàn lợn hiện có 19.500 con, bằng 90,6% so với năm 2023; sản lượng thịt lợn hơi năm 2024 đạt 3.996,4 tấn, bằng 88,3% so với năm 2023. Đàn gia cầm hiện có 1.390 ngàn con, tăng 4,5% so với cùng kỳ 2023. Sản lượng thịt gia cầm trong năm thu được 2.853,5 tấn, bằng 96,5% so với năm 2023. Sản lượng trứng gia cầm năm 2024 thu được 246.520 ngàn quả, tăng 4,9% so với năm 2023. Trong đó, đàn gà có 478 ngàn con, tăng 3,5% so với năm 2023; sản lượng thịt gà hơi trong năm thu được 2.367,4 tấn, bằng 96,3%; sản lượng trứng gà thu được 21.597,8 ngàn quả, tăng 14,9% so với năm 2023.
3.2. Sản xuất lâm nghiệp
Diện tích giao khoán quản lý bảo vệ rừng được duy trì trên 63.679,5 ha cho 03 tập thể và 2.319 hộ gia đình tại địa phương. Công tác phòng chống cháy rừng được thực hiện nghiêm túc, từ đầu năm đến nay, trên địa bàn huyện không xảy ra cháy rừng. Năm 2024, trên địa bàn huyện đã xảy ra 05 vụ vi phạm các quy định về quản lý bảo vệ rừng, giảm 03 vụ so với năm 2023. Tổng khối lượng lâm sản bị thiệt hại 49,2 m3 gỗ, diện tích rừng bị thiệt hại 687 m2. Đã xử lý hành chính 04 vụ, xử lý hình sự 01 vụ; thu nộp ngân sách được 42,5 triệu đồng; tịch thu 10,6 m3 gỗ tạp (SP) và 15,1 kg động vật hoang dã.
Công tác trồng cây xanh năm 2024 toàn huyện đã trồng được 1.139.757 cây, đạt 116,3% kế hoạch. Diện tích trồng mới rừng tập trung thực hiện được 76 ha, tăng 52% so với năm 2023. Khai thác lâm sản năm 2024 thực hiện được 17.300 m3 gỗ các loại, tăng 0,1% so với năm 2023; củi thước 587,6 ster, bằng 99,8%; tre/lồ ô 63,7 ngàn cây; song mây 2 tấn; rau rừng 190,5 tấn; măng tươi 1.701 tấn.
3.3. Sản xuất thủy sản
Tổng diện tích nuôi thủy sản năm 2024 là 151,2 ha, tăng 39% so với năm 2023. Nuôi cá lồng bè có 01 chi nhánh của Tổng công ty thủy sản Việt nam nuôi cá Tầm tại hồ Kala - Bảo Thuận và 93 hộ nuôi thủy sản lồng bè với tổng số 332 lồng, tổng thể tích lồng là 47.272 m3. Sản lượng thủy sản năm 2024 đạt 1.321 tấn cá các loại, tăng 37% so với năm 2023.
4. Sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp thành phần kinh tế cá thể trên địa bàn huyện năm 2024 được giữ vững và tiếp tục phát triển. Giá trị sản xuất hầu hết các ngành đều tăng, góp phần quan trọng trong tăng trưởng kinh tế của huyện. Tuy nhiên quy mô sản xuất của cơ sở còn nhỏ lẻ, chưa có sự liên kết, hợp tác để phát triển. Năm 2024, giá trị sản xuất (theo giá so sánh 2010) được 223,42 tỷ đồng, tăng 5,27% so với năm 2023. Trong đó: Công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 219,69 tỷ đồng, tăng 5,44%; công nghiệp sản xuất điện, nước đá đạt 3,73 tỷ đồng, bằng 95,93% so với năm 2023.
5. Thương mại - dịch vụ
Năm 2024, hoạt động thương mại, dịch vụ trên địa bàn huyện diễn biến thuận lợi và tiếp tục phát triển; lượng cung hàng hóa trên thị trường dồi dào, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và sản xuất của nhân dân. Hoạt động vận tải đáp ứng tốt nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa trên địa bàn. Năm 2024 tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ đạt 4.750 tỷ đồng, tăng 12,6% so với năm 2023.
6. Các vấn đề xã hội
6.1. Hoạt động văn hóa và thể thao
Ngành văn hóa huyện đã thực hiện tốt công tác tuyên truyền, thông tin cổ động nhiệm vụ chính trị, các ngày lễ trọng đại và kỷ niệm của địa phương, đất nước. Trong năm 2024, đã thực hiện 09 cụm pano trang trí (3 mặt); 784m2 pano khổ lớn; 02 cụm panô 40 m2, 2.914 băng rôn, 24 lượt xe loa, 14 nội dung tuyên truyền trên bảng tin điện tử công cộng và hàng trăm nội dung tuyên truyền trên các bảng led điện tử của các cơ quan, đơn vị, địa phương.
Các hoạt động thể dục thể thao quần chúng được tổ chức thường xuyên và diễn ra rộng khắp, thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia tập luyện, rèn luyện để nâng cao sức khỏe, thể chất và tinh thần. Trong năm 2024 các vận động viên, đoàn thể thao của huyện đã tham gia nhiều giải đấu và đạt thành tích cao. Xây dựng kế hoạch triển khai các hoạt động, chương trình văn hóa, văn nghệ, thể thao, chỉnh trang đô thị, chào mừng Festival Hoa Đà Lạt lần thứ X năm 2024. Duy trì các hoạt động thể thao cho học sinh và CLB như: Bóng bàn, Cầu lông, Karatedo, Taekwondo, Thể dục dưỡng sinh…
6.2. Hoạt động Giáo dục và đào tạo
Ngành giáo dục đã thực hiện nghiêm túc kỷ cương, nề nếp và duy trì ổn định chất lượng dạy và học; triển khai thực hiện hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ năm học 2023-2024. Tiếp tục rà soát, sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị trường học gắn với nâng cao chất lượng giáo dục, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên đáp ứng yêu cầu giảng dạy. Toàn huyện hiện có 79 trường học, bao gồm 76 trường công lập và 03 trường tư thục. Đến cuối năm 2024, số trường đạt chuẩn là 71/75 trường, tỷ lệ 94,67%, trong đó có 5 trường đạt chuẩn quốc gia mức độ 2; Trung tâm GDNN-GDTX huyện đạt chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục mức độ 2.
6.3. Hoạt động Y tế
Công tác quản lý nhà nước về y tế được tăng cường, hạ tầng về y tế cả cơ sở vật chất và trang thiết bị được quan tâm đầu tư đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số và chăm sóc sức khỏe Nhân dân. Hệ thống y tế cơ sở từng bước được củng cố và kiện toàn để thực hiện nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, cơ bản đáp ứng được nhu cầu của nhân dân trên địa bàn xã, thị trấn. Số trạm y tế có bác sỹ làm việc đạt 94,7%; có 19/19 xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế vào cuối năm 2024; tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 93,6%.
6.4. Thực hiện chính sách, an sinh xã hội
Các hộ gia đình chính sách, người có công được quan tâm thực hiện các chế độ, chính sách đầy đủ, kịp thời, đúng quy định. Trong dịp Tết Nguyên đán, tổng số tiền và quà tặng cho gia đình chính sách và người có công là 1.408,2 triệu đồng. Huyện tổ chức thăm và tặng quà nhân dịp 27/7 cho 100 người có công tiêu biểu và người có công có hoàn cảnh khó khăn với tổng số tiền hơn 100 triệu đồng. Giải quyết chế độ mai táng phí đối với thân nhân người có công với cách mạng, người tham gia chiến tranh bảo vệ tổ quốc từ trần cho 50 đối tượng với số tiền 100 triệu đồng; Giải quyết chế độ mai táng phí và trợ cấp 1 lần với 12 thân nhân người có công cách mạng, với tổng số tiền 520 triệu đồng. Hàng tháng chi trả trợ cấp cho 933 người có công, tổng kinh phí 2,5 tỷ đồng.
6.5. Công tác giảm nghèo
UBND huyện ban hành Kế hoạch thực hiện Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững năm 2024. Rà soát cấp phát đầy đủ, kịp thời thẻ Bảo hiểm y tế cho hộ nghèo, cận nghèo, hộ có mức sống trung bình. Thực hiện các hoạt động trợ cấp nhân dịp Tết Nguyên đán năm 2024 đầy đủ, kịp thời, đúng quy định với tổng số tiền và quà tặng cho các hộ nghèo, cận nghèo là 1.828,4 triệu đồng. Cuối năm 2024, số hộ nghèo đa chiều còn 1.235 hộ, tỷ lệ 2,93%; trong đó, hộ nghèo đa chiều dân tộc thiểu số có 774 hộ, tỷ lệ 4,74%.
6.6. Tình hình thiên tai
Năm 2024, thiên tai trên địa bàn huyện xảy ra chủ yếu do nắng hạn kéo dài trong những tháng đầu năm. Tình trạng khô hạn, thiếu nước đã ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng của khoảng 9.300 ha cây trồng. Tại thị trấn Di Linh, mưa lớn làm sạt lở sập bờ tường rào của Trung tâm y tế huyện; 01 nhà dân bị ta luy đổ sập vào nhà tác động làm hư hỏng. UBND thị trấn Di Linh đã hỗ trợ kinh phí cho 02 hộ bị ảnh hưởng là 15 triệu đồng.
6.7. Công tác an ninh, quốc phòng
Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện được giữ vững và ổn định. Huyện đã tổ chức Lễ giao nhận quân năm 2024 với 28 thanh niên thực hiện nghĩa vụ công an và 140 chiến sỹ thực hiện nghĩa vụ quân sự, đảm bảo đạt 100% chỉ tiêu và chất lượng. Từ ngày 15/12/2023 đến 15/12/2024, toàn huyện xảy ra 54 vụ tai nạn giao thông, làm chết 25 người, bị thương 43 người, thiệt hại tài sản 788 triệu đồng. So với năm 2023, số vụ giảm 02 vụ, số người chết giảm 19 người, bị thương tăng 14 người.