Tình hình kinh tế - xã hội
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 11 năm 2016

 Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

Nông nghiệp

Sản xuất nông nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào thu hoạch lúa mùa, gieo trồng cây màu vụ đông tại các địa phương phía Bắc và chuẩn bị cho gieo trồng vụ đông xuân trên cả nước. Tính đến trung tuần tháng Mười Một, cả nước đã thu hoạch được 1.240,5 nghìn ha lúa mùa, chiếm 67,5% diện tích gieo cấy và bằng 96,7% cùng kỳ năm trước, trong đó các địa phương phía Bắc thu hoạch được 1.122,6 nghìn ha, chiếm 97,4% và bằng 98,1%; các địa phương phía Nam thu hoạch được 117,9 nghìn ha, chiếm 17,2% và bằng 85,2%.

Sản xuất lúa mùa ở miền Bắc năm nay gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng thời tiết hạn hán, thiếu nước đầu vụ và mưa, bão gây ngập úng cuối tháng Bảy, đầu tháng Tám vừa qua. Diện tích gieo cấy lúa mùa của miền Bắc giảm 14,7 nghìn ha so với năm trước, trong đó: Hà Nội, Cao Bằng, Thanh Hóa mỗi địa phương giảm 1,9 nghìn ha; Hưng Yên giảm 1,8 nghìn ha; Bắc Giang, Phú Thọ mỗi tỉnh giảm 1,6 nghìn ha. Theo báo cáo sơ bộ, năng suất lúa mùa năm nay tại các địa phương phía Bắc ước tính đạt 49,8 tạ/ha, giảm 0,3 tạ/ha so với vụ mùa năm trước, trong đó năng suất lúa mùa một số địa phương giảm mạnh: Vĩnh Phúc giảm 11,4 tạ/ha; Hà Nội giảm 3,8 tạ/ha; Ninh Bình giảm 1,3 tạ/ha; Hà Nam giảm 0,9 tạ/ha. Sản lượng lúa mùa của các địa phương phía Bắc ước tính đạt 5,7 triệu tấn, giảm 102,6 nghìn tấn so với vụ mùa năm 2015.

Tính đến giữa tháng 11/2016, các địa phương phía Nam đã gieo sạ được 388 nghìn ha lúa đông xuân sớm, bằng 95,9% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long gieo sạ được 359,7 nghìn ha, bằng 102,5% do một số địa phương xuống giống sớm hơn cùng kỳ năm trước nhằm tránh ảnh hưởng của hạn hán, xâm nhập mặn năm 2017.

Gieo trồng cây vụ đông năm nay giảm so với cùng kỳ năm trước chủ yếu do hiệu quả thấp và ảnh hưởng của mưa, bão đầu vụ, nhiều diện tích bị ngập úng không gieo trồng được. Đến thời điểm 15/11/2016, cả nước gieo trồng được 120,7 nghìn ha ngô, bằng 94,5% cùng kỳ năm trước; 29 nghìn ha khoai lang, bằng 91,5%; 6,3 nghìn ha lạc, bằng 108,6%; 17,7 nghìn ha đậu tương, bằng 63,3%; 153,3 nghìn ha rau đậu, bằng 100,1%.

Chăn nuôi gia súc, gia cầm nhìn chung phát triển ổn định. Theo kết quả điều tra chăn nuôi, tại thời điểm 01/10/2016, đàn trâu cả nước có 2,5 triệu con, giảm 0,2% so với cùng thời điểm năm 2015; đàn bò có 5,5 triệu con, tăng 2,4%, trong đó đàn bò sữa gần 283 nghìn con, tăng 2,8%. Đàn lợn cả nước có 29,1 triệu con, tăng 4,8% so với cùng thời điểm năm trước, chủ yếu do giá thịt lợn hơi ổn định, dịch bệnh ít xảy ra nên người chăn nuôi yên tâm đầu tư tái đàn. Đàn gia cầm cả nước có 364,5 triệu con, tăng 6,6%, trong đó đàn gà 277,2 triệu con, tăng 6,9%. Sản lượng thịt trâu hơi trong tháng ước tính tăng 1% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng thịt bò hơi ước tính tăng 1,8%; sản lượng thịt lợn hơi tăng 5%; sản lượng thịt gia cầm tăng 5,5%-6%; sản lượng trứng gia cầm tăng 6%-6,3%.

Tính đến thời điểm 24/11/2016, cả nước không còn dịch cúm gia cầm; các dịch bệnh chưa qua 21 ngày còn ở một số địa phương: Dịch lở mồm long móng ở Đắk Lắk; dịch tai xanh trên lợn ở Hà Tĩnh. 

 

Sản xuất nông nghiệp đến ngày 15 tháng 11 năm 2016

    Lâm nghiệp

Trong tháng 11/2016, diện tích rừng trồng tập trung ước tính đạt 23,7 nghìn ha, giảm 8,8% so với cùng kỳ năm trước (chủ yếu do ảnh hưởng của mưa, lũ ở miền Trung và Nam Bộ); số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 2,9 triệu cây, giảm 6,5%; sản lượng gỗ khai thác đạt 866 nghìn m3, giảm 2,8%; sản lượng củi khai thác đạt 1,6 triệu ste, tương đương cùng kỳ năm 2015. Tính chung 11 tháng, diện tích rừng trồng tập trung ước tính đạt 198,7 nghìn ha, giảm 6,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số tỉnh diện tích rừng trồng tập trung giảm nhiều: Tuyên Quang đạt 10,5 nghìn ha, giảm 24%; Hà Tĩnh đạt 4,7 nghìn ha, giảm 15,7%; Lào Cai đạt 6,6 nghìn ha, giảm 10,3%. Sản lượng gỗ khai thác 11 tháng đạt 8,5 triệu m3, tăng 9,8% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng củi khai thác đạt 24,7 triệu ste, giảm 0,4%.

Trong tháng, cả nước có 79 ha rừng bị thiệt hại, trong đó diện tích rừng bị cháy là 19 ha; diện tích rừng bị chặt phá là 60 ha. Tính chung 11 tháng, diện tích rừng bị thiệt hại là 4.492 ha, gấp 2,4 lần cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 3.305 ha, gấp 3,1 lần; diện tích rừng bị chặt phá là 1.187 ha, gấp 1,5 lần.

Thuỷ sản

Sản lượng thủy sản tháng Mười Một ước tính đạt 558,5 nghìn tấn, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 420,1 nghìn tấn, tăng 4,5%; tôm đạt 82,1 nghìn tấn, tăng 9%. Sản lượng thủy sản nuôi trồng trong tháng ước tính đạt 311,3 nghìn tấn, tăng 6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 227,9 nghìn tấn, tăng 4,8%; tôm đạt 66,1 nghìn tấn, tăng 10,3%.

 Nuôi cá tra tương đối ổn định, giá cá tra nguyên liệu tăng mạnh trong tháng Mười và giữ ở mức cao do nhu cầu cá tra tăng lên trong những tháng cuối năm. Sản lượng cá tra thâm canh trong tháng ước tính đạt 96,1 nghìn tấn, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Đồng Tháp đạt 35,6 nghìn tấn, tăng 0,8%; Bến Tre đạt 16,6 nghìn tấn, tăng 14,8%.

Nuôi tôm đang khá thuận lợi do giá tôm nguyên liệu tăng và tác động tích cực từ định hướng phát triển tôm nước lợ của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Sản lượng tôm sú ước tính đạt 25,8 nghìn tấn, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Cà Mau đạt 7,1 nghìn tấn, tăng 29,9%; Trà Vinh đạt 1,7 nghìn tấn, tăng 13,3%. Sản lượng tôm thẻ chân trắng ước đạt 36,7 nghìn tấn, tăng 15% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Sóc Trăng đạt 15,8 nghìn tấn, tăng 24%; Bạc Liêu đạt 3,4 nghìn tấn, tăng 6,6%.

Sản lượng thủy sản khai thác tháng Mười Một ước tính đạt 247,2 nghìn tấn, tăng 4,1% so cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 192,2 nghìn tấn, tăng 4,1%, tôm đạt 16 nghìn tấn, tăng 3,9%. Riêng sản lượng khai thác biển đạt 231 nghìn tấn, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 172,9 nghìn tấn, tăng 4,6%; tôm đạt 15,4 nghìn tấn, tăng 4,8%.

Tính chung 11 tháng, sản lượng thủy sản ước tính đạt 6.054,1 nghìn tấn, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 3.224,3 nghìn tấn, tăng 1,7%; sản lượng thủy sản khai thác đạt 2.829,8 nghìn tấn, tăng 3% (riêng sản lượng khai thác biển đạt 2.654,4 nghìn tấn, tăng 3,2%).

Sản xuất công nghiệp

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng Mười Một ước tính tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước (tháng Mười tăng 6,5% so với cùng kỳ), trong đó ngành khai khoáng giảm 13,8%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 13,1%; sản xuất và phân phối điện tăng 12,9%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,5%.

Tính chung 11 tháng, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 7,3% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng 7,4% của 10 tháng và thấp hơn nhiều so với mức tăng 9,9% của cùng kỳ năm 2015[1][1], trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11%, đóng góp 7,7 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất, phân phối điện tăng 12,3%, đóng góp 0,8 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 7%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; ngành khai khoáng tiếp tục giảm sâu với mức giảm 6,3%, làm giảm 1,3 điểm phần trăm của mức tăng chung.

   Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất 11 tháng tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất kim loại và dệt cùng tăng 17,3%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 12,7%; sản xuất và phân phối điện tăng 12,3%. Một số ngành có mức tăng thấp hoặc giảm: Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 4,7%; sản xuất thuốc lá tăng 3,8%; khai khoáng khác tăng 2,4%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 1,4%; khai thác than cứng và than non giảm 0,1%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 8,3%.

Trong 11 tháng năm nay, một số sản phẩm công nghiệp tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Ti vi tăng 68,2%; thép cán tăng 25,9%; ô tô tăng 21%; sắt, thép thô tăng 20,2%; thức ăn cho gia súc tăng 18,5%; xi măng tăng 14,5%. Một số sản phẩm tăng thấp hoặc giảm: Thuốc lá điếu tăng 3,5%; xe máy tăng 2,3%; giày, dép da tăng 1,9%; than đá giảm 0,3%; khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 0,6%; vải dệt từ sợi tự nhiên giảm 2,2%; đường kính giảm 7,7%; điện thoại di động giảm 8,2%; dầu thô khai thác giảm 10%; phân hỗn hợp (NPK) giảm 10,5%.

   Chỉ số sản xuất công nghiệp 11 tháng so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương như sau: Quảng Nam tăng 30,6%; Thái Nguyên tăng 24,5%; Hải Phòng tăng 16,7%; Đà Nẵng tăng 13%; Bình Dương tăng 9,5%; Cần Thơ tăng 8,9%; Hải Dương tăng 8,6%; Đồng Nai tăng 8,4%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 7,3%; Hà Nội tăng 7,1%; Vĩnh Phúc tăng 6,2%; Bắc Ninh tăng 6,1%; Quảng Ninh tăng 3,8%; Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 4,2%.

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 10/2016 tăng 2,9% so với tháng trước tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 10 tháng, chỉ số tiêu thụ tăng 8,3% so với cùng kỳ năm 2015 (cùng kỳ năm trước tăng 12,8%), trong đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao: Sản xuất xe có động cơ tăng 19,9%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 16,1%; sản xuất đồ uống tăng 11,6%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại tăng 10,9%; sản xuất kim loại tăng 10,7%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng thấp hoặc giảm: Sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 6,6%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 5,8%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 2,9%; sản xuất sản phẩm thuốc lá, sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất cùng tăng 2,8%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 0,4%; sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 1,2%.

Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 01/11/2016 tăng 8,8% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm 2015 tăng 9,7%), trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm: Dệt tăng 2,3%; sản xuất trang phục tăng 1,9%; sản xuất hóa chất và các sản phẩm hóa chất giảm 1,7%; sản xuất thiết bị điện giảm 5,1%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 9,6%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 13,3%; sản xuất da và các sản phẩm liên quan giảm 13,7%; sản xuất sản phẩm thuốc lá giảm 23,5%; sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 31,4%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao hơn mức tăng chung: Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 110,3%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 49,7% (chủ yếu là tồn kho điện thoại di động Samsung chờ xuất khẩu); sản xuất đồ uống tăng 29,3%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 26,8%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại tăng 24,1%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 22,2%.

Tỷ lệ tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bình quân 10 tháng năm 2016 là 66,9% (cùng kỳ năm trước là 72,9%), trong đó, một số ngành có tỷ lệ tồn kho cao: Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn 127,4%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu 113,2%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất 107,9%; sản xuất, chế biến thực phẩm 86,6%.

Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/11/2016 tăng 4,3% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm 2,6%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 1,7%; doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 7,4%. Tại thời điểm trên, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng giảm 7,2% so với cùng thời điểm năm trước; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5%; ngành sản xuất, phân phối điện giảm 0,1%; ngành cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 2,1%.

Lao động của các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/11/2016 so với cùng thời điểm năm trước của một số địa phương có quy mô công nghiệp lớn như sau: Thái Nguyên tăng 28,4%; Hải Phòng tăng 10,3%; Vĩnh Phúc tăng 8,4%; Bà Rịa - Vũng Tàu tăng 7,9%[2][2]; Bình Dương tăng 7%; Đồng Nai tăng 5,9%; Bắc Ninh tăng 5,7%; Đà Nẵng tăng 4,6%; Hà Nội tăng 2,1%; Quảng Nam tăng 1,3%; Cần Thơ tăng 0,9%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 0,6%; Hải Dương giảm 0,8%; Quảng Ninh giảm 3,3% (do lao động ngành than giảm).

 

Chỉ số sản xuất công nghiệp

 

Một số sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp

 

Chỉ số tiêu thụ và tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo

 

Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp

 

Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động theo lĩnh vực hoạt động

 

Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động theo lĩnh vực hoạt động

   Tình hình đăng ký doanh nghiệp[3][3]

Trong tháng 11/2016, cả nước có 9.918 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 87,1 nghìn tỷ đồng, giảm 3,8% về số doanh nghiệp và tăng 6,8% về số vốn đăng ký so với tháng trước; vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 8,8 tỷ đồng, tăng 11,1%; tổng số lao động đăng ký trong tháng của các doanh nghiệp thành lập mới là 95,9 nghìn người, giảm 27,7% so với tháng trước.

Trong tháng, cả nước có 2.074 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 4,9% so với tháng trước; có 6.838 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động (bao gồm: 1.651 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn và 5.187 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể), tăng 7,2%; có 1.173 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động, tăng 26,1%.

Tính chung 11 tháng, cả nước có 101.683 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 797,7 nghìn tỷ đồng (nếu tính cả 1.463,9 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của các doanh nghiệp thay đổi tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký và bổ sung thêm vào nền kinh tế trong 11 tháng là 2.261,6 nghìn tỷ đồng), tăng 17,1% về số doanh nghiệp và tăng 48,1% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2015; số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 7,8 tỷ đồng, tăng 26,5%. Tổng số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới trong 11 tháng là 1.157,2 nghìn người, bằng 87,8% cùng kỳ năm 2015. Trong 11 tháng năm nay còn có 24.560 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 31,7% so với cùng kỳ năm trước (11 tháng năm 2015 tăng 31,2% so với cùng kỳ năm 2014), nâng tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 11 tháng lên 126,2 nghìn doanh nghiệp. Điều này cho thấy khung khổ pháp lý mới cùng với các giải pháp của Chính phủ trong việc hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp phát triển đang tiếp tục phát huy hiệu quả.

Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới 11 tháng năm nay ở hầu hết các ngành, lĩnh vực đều tăng so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số ngành tăng mạnh cả về số doanh nghiệp và số vốn đăng ký: Kinh doanh bất động sản tăng 95,6% về số doanh nghiệp và tăng 221,2% về vốn đăng ký; thông tin và truyền thông tăng 13,8% và tăng 144,3%; tài chính ngân hàng và bảo hiểm tăng 28,4% và tăng 91,8%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 22,6% và tăng 86,1%; hoạt động dịch vụ khác tăng 41,6% và tăng 84,9%... Ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản tuy số doanh nghiệp thành lập mới giảm 13,8% nhưng số vốn đăng ký tăng 27,9% so với cùng kỳ năm trước; riêng lĩnh vực nghệ thuật, vui chơi và giải trí, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới trong 11 tháng giảm 26,6%; số vốn đăng ký giảm 13,8%.

Số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất, kinh doanh trong 11 tháng là 10.468 doanh nghiệp, tăng 23,6% so với cùng kỳ năm trước (11 tháng năm 2015 giảm 2,2% so với cùng kỳ năm 2014), trong đó có 9.768 doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng, chiếm 93,3% và tăng 23,2%. Nếu phân theo loại hình doanh nghiệp, trong tổng số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động có 4.207 công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên (chiếm 40,2%); 3.114 công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên (chiếm 29,8%); 1.780 doanh nghiệp tư nhân (chiếm 17%); 1.364 công ty cổ phần (chiếm 13%) và 03 công ty hợp danh.

Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động trong 11 tháng năm nay là 54.046 doanh nghiệp, giảm 13,8% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm 18.901 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 27,3% và 35.145 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể, giảm 26,6%. Trong tổng số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, có 7.404 công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên (chiếm 39,2%); 6.420 công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên (chiếm 34%); 3.206 công ty cổ phần (chiếm 17%); 1.870 doanh nghiệp tư nhân (chiếm 9,8%) và 01 công ty hợp danh. Đối với doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể, có 14.743 công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên (chiếm 41,9%); 10.915 công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên (chiếm 31,1%); 6.359 công ty cổ phần (chiếm 18,1%) và 3.128 doanh nghiệp tư nhân (chiếm 8,9%).

Đầu tư

Tình hình thực hiện vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước trong tháng tiếp tục đạt khá do đang là thời kỳ cao điểm của hoạt động đầu tư, xây dựng cơ bản, các công trình đang khẩn trương hoàn thành tiến độ. Các Bộ, ngành, địa phương tiếp tục triển khai, thực hiện tích cực Nghị quyết số 60/NQ-CP ngày 08/7/2016 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2016.

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng 11/2016 ước tính đạt 27.547 tỷ đồng, tăng 17,1% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn trung ương 6.675 tỷ đồng, tăng 14,1%; vốn địa phương 20.872 tỷ đồng, tăng 18,2%. Tính chung 11 tháng, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước ước tính đạt 233,6 nghìn tỷ đồng, bằng 88,6% kế hoạch năm và tăng 14,4% so với cùng kỳ năm 2015, gồm có:

- Vốn trung ương quản lý đạt 55,2 nghìn tỷ đồng, bằng 84,2% kế hoạch năm và tăng 14,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giao thông Vận tải đạt 18,2 nghìn tỷ đồng, bằng 87,1% và tăng 18,2%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 6.021 tỷ đồng, bằng 85,3% và tăng 11,5%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 2.470 tỷ đồng, bằng 76,7% và tăng 37,3%; Bộ Y tế 2.450 tỷ đồng, bằng 78,9% và tăng 17,3%; Bộ Xây dựng 817 tỷ đồng, bằng 88% và giảm 47,6%; Bộ Tài nguyên và Môi trường 643 tỷ đồng, bằng 71,8% và tăng 5,2%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 510 tỷ đồng, bằng 75,2% và giảm 1,4%; Bộ Công Thương 403 tỷ đồng, bằng 86,7% và tăng 6,8%; Bộ Khoa học và Công nghệ 256 tỷ đồng, bằng 88,3% và giảm 14,2%; Bộ Thông tin và Truyền thông 113 tỷ đồng, bằng 83,3% và giảm 29,5%.

- Vốn địa phương quản lý đạt 178,4 nghìn tỷ đồng, bằng 90,1% kế hoạch năm và tăng 14,3% so với cùng kỳ năm 2015. Trong đó, vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 125,4 nghìn tỷ đồng, bằng 86,3% và tăng 17,6%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 43,6 nghìn tỷ đồng, bằng 96,5% và tăng 8,4%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 9,4 nghìn tỷ đồng, bằng 125,8% và tăng 1,2%. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như sau: Hà Nội đạt 28,6 nghìn tỷ đồng, bằng 93,8% kế hoạch năm và tăng 44,1% so với cùng kỳ năm trước; thành phố Hồ Chí Minh 15,5 nghìn tỷ đồng, bằng 87,4% và tăng 4%; Quảng Ninh 5.853 tỷ đồng, bằng 91,5% và tăng 18,7%; Bình Dương 5.712 tỷ đồng, bằng 88,8% và tăng 33,3%; Nghệ An 5.080 tỷ đồng, bằng 87,9% và tăng 15,4%; Vĩnh Phúc 4.766 tỷ đồng, bằng 90,3% và tăng 7,7%; Bà Rịa - Vũng Tàu 4.379 tỷ đồng, bằng 71,4% và tăng 13,4%.

Đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20/11/2016 thu hút 2.240 dự án cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 13.028,2 triệu USD, tăng 20,8% về số dự án và giảm 3,9% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2015. Bên cạnh đó, có 1.075 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 5.074,8 triệu USD. Như vậy, tổng vốn đăng ký của các dự án cấp mới và vốn bổ sung trong 11 tháng năm nay đạt 18.103 triệu USD, giảm 10,5% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 11 tháng ước tính đạt 14,3 tỷ USD, tăng 8,3% so với cùng kỳ năm 2015.

Trong 11 tháng năm 2016, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất với số vốn đăng ký của các dự án được cấp phép mới đạt 8.804 triệu USD, chiếm 67,6% tổng vốn đăng ký cấp mới; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 1.301 triệu USD, chiếm 10%; các ngành còn lại đạt 2.923,2 triệu USD, chiếm 22,4%. Nếu tính cả vốn đăng ký bổ sung của các dự án đã cấp phép từ các năm trước, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 11 tháng năm nay đạt 13.417,4 triệu USD, chiếm 74,1% tổng vốn đăng ký; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 740,9 triệu USD[1][4], chiếm 4,1%; các ngành còn lại đạt 3.944,7 triệu USD, chiếm 21,8%.

Trong 11 tháng năm nay, cả nước có 49 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới, trong đó Hải Phòng có số vốn đăng ký lớn nhất với 2.446,1 triệu USD, chiếm 18,8% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Hà Nội 1.428,9 triệu USD, chiếm 11%; Bình Dương 1.329,2 triệu USD, chiếm 10,2%; Đồng Nai 1.036 triệu USD, chiếm 8%; thành phố Hồ Chí Minh 808,8 triệu USD, chiếm 6,2%; Bắc Giang 623,1 triệu USD, chiếm 4,8%; Hà Nam 604,3 triệu USD, chiếm 4,6%.

Trong số 63 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam 11 tháng năm nay, Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với 4.818,1 triệu USD, chiếm 37% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Xin-ga-po 1.567,7 triệu USD, chiếm 12%; Đặc khu Hành chính Hồng Công (TQ) 963 triệu USD, chiếm 7,4%; Trung Quốc 944,8 triệu USD, chiếm 7,3%; Đài Loan 848,8 triệu USD, chiếm 6,5%; Nhật Bản 730,8 triệu USD, chiếm 5,6%. 

 

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước

 

 

Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp phép từ 01/01- 20/11/2016

   Thu, chi ngân sách Nhà nước

Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/11/2016 ước tính đạt 852,8 nghìn tỷ đồng, bằng 84,1% dự toán năm[2][5], trong đó thu nội địa đạt 683,5 nghìn tỷ đồng, bằng 87,1%; thu từ dầu thô đạt 34,5 nghìn tỷ đồng, bằng 63,4%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu đạt 131,3 nghìn tỷ đồng, bằng 76,3%.

Trong thu nội địa, thu tiền sử dụng đất đạt 68,8 nghìn tỷ đồng, bằng 137,6% dự toán năm; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước 135 nghìn tỷ đồng, bằng 94,1%; thuế bảo vệ môi trường 35,2 nghìn tỷ đồng, bằng 91,5%; thuế thu nhập cá nhân 57,3 nghìn tỷ đồng, bằng 90%; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 137,3 nghìn tỷ đồng, bằng 86,4%. Riêng thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước đạt 176,6 nghìn tỷ đồng, chỉ bằng 68,9% dự toán năm. Bộ Tài chính đang tích cực chỉ đạo các cơ quan Thuế, Hải quan quyết liệt thực hiện thu hồi nợ đọng thuế và các khoản phải thu qua công tác thanh tra, kiểm toán; rà soát các khoản thu, bám sát tình hình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp để đôn đốc thu kịp thời vào ngân sách Nhà nước.

Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/11/2016 ước tính đạt 1024,7 nghìn tỷ đồng, bằng 80,5% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển đạt 167,7 nghìn tỷ đồng, bằng 65,8%; chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính đạt 713,9 nghìn tỷ đồng, bằng 86,6%; chi trả nợ và viện trợ đạt 136 nghìn tỷ đồng, bằng 87,7%.

Thương mại, giá cả, vận tải và du lịch

Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Mười Một ước tính đạt 302,9 nghìn tỷ đồng, tăng 1,9% so với tháng trước và tăng 10,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 227,4 nghìn tỷ đồng, tăng 1,7% và tăng 9,5%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 37,3 nghìn tỷ đồng, tăng 2,6% và tăng 19,4%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 3,4 nghìn tỷ đồng, tăng 3% và tăng 33%; doanh thu dịch vụ khác đạt 34,8 nghìn tỷ đồng, tăng 2,5% và tăng 6%.

Tính chung 11 tháng, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 3.201,5 nghìn tỷ đồng, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 7,6% (cùng kỳ năm 2015 tăng 8,3%). Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa 11 tháng ước tính đạt 2.429,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 75,9% tổng mức và tăng 9,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số ngành hàng tăng: Lương thực, thực phẩm tăng 12,6%; may mặc tăng 9,9%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 9,1%; phương tiện đi lại tăng 3,8%; vật phẩm văn hoá, giáo dục tăng 0,2%.

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 11 tháng ước tính đạt 374,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,7% tổng mức và tăng 10,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu của một số địa phương tăng khá: Ninh Bình tăng 25,1%; Thái Nguyên tăng 24%; Hà Nội tăng 11,8%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 6,9%. Một số địa phương có doanh thu giảm: Hà Tĩnh giảm 19,4%; Nghệ An giảm 6,1%; Cao Bằng giảm 4,9%.

Doanh thu du lịch lữ hành 11 tháng năm nay ước tính đạt 31 nghìn tỷ đồng, chiếm 1% tổng mức và tăng 11,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu của Khánh Hoà tăng 20,7%; Thanh Hoá tăng 20,4%; Bà Rịa - Vũng Tàu tăng 13,7%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 11,5%; Hà Nội tăng 10,2%. Một số địa phương doanh thu giảm: Tuyên Quang giảm 3%; Nam Định giảm 2,5%; Hải Dương giảm 0,4%.

Doanh thu dịch vụ khác 11 tháng ước tính đạt 366,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,4% tổng mức và tăng 9,2% so với cùng kỳ năm 2015. Một số địa phương có doanh thu tăng khá: Bắc Ninh tăng 14,1%; Sơn La tăng 10,6%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 9,9%; Lâm Đồng tăng 8,3%; Thái Nguyên tăng 8,1%. 

http://gsoweb.gso.gov.vn/images/doc_doc.gif

Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

 Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thực hiện tháng Mười đạt 15.401 triệu USD, thấp hơn 99 triệu USD so với số ước tính, trong đó hàng dệt may thấp hơn 166 triệu USD; dầu thô thấp hơn 50 triệu USD; cao su thấp hơn 37 triệu USD; gạo thấp hơn 25 triệu USD; giày dép cao hơn 96 triệu USD; máy móc, thiết bị, dung cụ phụ tùng khác cao hơn 43 triệu USD.

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 11/2016 ước tính đạt 15,60 tỷ USD, tăng 1,3% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 4,32 tỷ USD, tăng 3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 11,28 tỷ USD, tăng 0,7%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 11/2016 tăng 12,4%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 11,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 12,9%. Một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng khá so với cùng kỳ năm trước: Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 30,5%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 29,9%; thủy sản tăng 17,5%.

Nhìn chung sự cố Galaxy Note 7 không ảnh hưởng nhiều đến kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam cũng như đối với nhóm hàng điện thoại và linh kiện. Trong tháng 11/2016, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng điện thoại và linh kiện ước tính đạt khoảng 3 tỷ USD, tăng 5,8% so với tháng trước và tăng 7,8% so với cùng kỳ năm 2015.

Tính chung 11 tháng năm nay, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 159,5 tỷ USD, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 45,4 tỷ USD, tăng 4,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 114,1 tỷ USD, tăng 8,7%. Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng gia công, lắp ráp (với tỷ trọng lớn thuộc về các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài) tăng so với cùng kỳ năm trước: Điện thoại và linh kiện đạt 31,3 tỷ USD, tăng 10,2%; dệt may đạt 21,5 tỷ USD, tăng 4,5%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 16,8 tỷ USD, tăng 17,1%; giày dép đạt 11,6 tỷ USD, tăng 7,5%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 9,3 tỷ USD, tăng 26%.

Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản và nguyên liệu thô giảm so với cùng kỳ năm trước: Dầu thô đạt 2,1 tỷ USD, giảm 39,7% (lượng giảm 25,1%); gạo đạt 2,1 tỷ USD, giảm 20,1% (lượng giảm 24,2%); sắn và sản phẩm từ sắn đạt 892 triệu USD, giảm 25,2% (lượng giảm 11,4%).

Về thị trường hàng hóa xuất khẩu 11 tháng năm 2016, Hoa Kỳ vẫn là thị trường dẫn đầu với 34,7 tỷ USD, tăng 14% so với cùng kỳ năm 2015. Tiếp đến là thị trường EU đạt 30,5 tỷ USD, tăng 8,3%; Trung Quốc đạt 19,6 tỷ USD, tăng 26,7%; Nhật Bản đạt 13,2 tỷ USD, tăng 2,9%; Hàn Quốc đạt 10,4 tỷ USD, tăng 27,6%; riêng xuất khẩu sang thị trường ASEAN đạt 15,7 tỷ USD, giảm 6,6%.

Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu thực hiện tháng Mười đạt 15.846 triệu USD, cao hơn 146 triệu USD so với số ước tính, trong đó điện tử máy tính và linh kiện cao hơn 106 triệu USD; vải cao hơn 49 triệu USD; phương tiện vận tải khác và phụ tùng cao hơn 26 triệu USD; sản phẩm hóa chất cao hơn 14 triệu USD; kim loại thường khác thấp hơn 81 triệu USD; sắt, thép thấp hơn 27 triệu USD.

Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 11/2016 ước tính đạt 16,00 tỷ USD, tăng 1% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 6,45 tỷ USD, tăng 1,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 9,55 tỷ USD, tăng 0,4%. Kim ngạch một số mặt hàng nhập khẩu phục vụ sản xuất tăng: Chất dẻo tăng 7,8%; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng tăng 4,8%; điện thoại và linh kiện tăng 4,1%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 11/2016 tăng 16,9%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 12,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 20,1%.

Tính chung 11 tháng năm 2016, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu đạt 156,6 tỷ USD, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 63,8 tỷ USD, tăng 3,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 92,8 tỷ USD, tăng 3,6%. Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng phục vụ nhu cầu sản xuất trong nước giảm so với cùng kỳ năm trước: Máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 25 tỷ USD, giảm 0,2%; điện thoại và linh kiện đạt 9,6 tỷ USD, giảm 3,5%; xăng dầu đạt 4,2 tỷ USD, giảm 14% (lượng tăng 15,6%); hóa chất đạt 2,8 tỷ USD, giảm 1,8%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 1,6 tỷ USD, giảm 18,1%; phân bón đạt 994 triệu USD, giảm 22,4%. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng so với cùng kỳ năm trước: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 25,4 tỷ USD, tăng 18,9%; vải đạt 9,5 tỷ USD, tăng 2,3%; sắt thép đạt 7,3 tỷ USD, tăng 7,4%; chất dẻo đạt 5,7 tỷ USD, tăng 4%; nguyên phụ liệu dệt may, giày dép đạt 4,7 tỷ USD, tăng 0,5%; kim loại thường khác đạt 4,4 tỷ USD, tăng 13%; sản phẩm chất dẻo đạt 4 tỷ USD, tăng 16,5%; sản phẩm hóa chất đạt 3,4 tỷ USD, tăng 9,6%; bông đạt 1,5 tỷ USD, tăng 1,3%; tân dược đạt 2,3 tỷ USD, tăng 11,6%.

Về thị trường hàng hóa nhập khẩu 11 tháng năm 2016, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của nước ta với kim ngạch đạt 44,6 tỷ USD, giảm 1% so với cùng kỳ năm trước[3][6]; tiếp đến là Hàn Quốc đạt 28,9 tỷ USD, tăng 13,2%; ASEAN đạt 21,2 tỷ USD, giảm 1,9%; Nhật Bản đạt 13,6 tỷ USD, tăng 3,5%; EU đạt 10,1 tỷ USD, tăng 7%; Hoa Kỳ đạt 7,8 tỷ USD, tăng 8,7%.

Cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng Mười nhập siêu 445 triệu USD[4][7]. Tháng Mười Một ước tính nhập siêu 400 triệu USD, tính chung 11 tháng năm 2016 xuất siêu 2,84 tỷ USD, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 18,40 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu 21,24 tỷ USD. 

 

Hàng hóa xuất khẩu

 

Hàng hóa nhập khẩu

   Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11/2016 tăng 0,48% so với tháng trước, trong đó nhóm giao thông tăng cao nhất với 1,63% do giá xăng, dầu được điều chỉnh tăng vào các thời điểm 20/10/2016, 04/11/2016 và 19/11/2016 (tác động làm CPI chung tăng khoảng 0,15%). Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,9%, trong đó dịch vụ y tế tăng 1,15% do trong tháng tỉnh Hải Dương thực hiện điều chỉnh tăng giá dịch vụ y tế bước 2 theo Thông tư liên tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTC ngày 29/10/2015 của Bộ Y tế và Bộ Tài chính. Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,49%, trong đó lương thực tăng 0,22%; thực phẩm tăng 0,71%[1][8]. Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,49% do giá gas và giá dầu hỏa điều chỉnh tăng vào thời điểm đầu tháng 11/2016. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại có chỉ số giá tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm: May mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,24%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,1%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,05%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,03%; giáo dục không đổi; bưu chính viễn thông giảm 0,02%.

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 11/2016 tăng 4,50% so với tháng 12/2015 và tăng 4,52% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 11 tháng năm nay tăng 2,47% so với bình quân cùng kỳ năm 2015.

Lạm phát cơ bản tháng 11/2016 tăng 0,1% so với tháng trước và tăng 1,87% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân 11 tháng tăng 1,82% so với bình quân cùng kỳ năm 2015.

Giá vàng trong nước biến động theo giá vàng thế giới. Chỉ số giá vàng tháng 11/2016 giảm 1,12% so với tháng trước; tăng 13,85% so với tháng 12/2015 và tăng 10,65% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 11/2016 tăng 0,22% so với tháng trước; giảm 0,71% so với tháng 12/2015 và giảm 0,02% so với cùng kỳ năm 2015. 

 

Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng, chỉ số giá đô la Mỹ và lạm phát cơ bản tháng 11 năm 2016

 Vận tải hành khách và hàng hóa

Vận tải hành khách tháng Mười Một ước tính đạt 303 triệu lượt khách, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước và 14,4 tỷ lượt khách.km, tăng 12,5%. Tính chung 11 tháng, vận tải hành khách đạt 3.313 triệu lượt khách, tăng 9,4% so với cùng kỳ năm trước và 156,7 tỷ lượt khách.km, tăng 10,8%, trong đó vận tải hành khách đường bộ đạt 3.109,3 triệu lượt khách, tăng 9,5% và 104,4 tỷ lượt khách.km, tăng 8,3%; đường biển đạt 5,5 triệu lượt khách, tăng 5,7% và 276,3 triệu lượt khách.km, tăng 2,7%. Vận tải bằng đường hàng không tăng mạnh, đạt 36,8 triệu lượt khách, tăng 26,4% và 46,1 tỷ lượt khách.km, tăng 20,1% do các hãng hàng không trong nước đẩy mạnh khai thác thị trường nội địa. Vận tải đường sắt đạt 9,1 triệu lượt khách, giảm 12,3% và 3,3 tỷ lượt khách.km, giảm 15,8% so với cùng kỳ năm 2015.

Vận tải hàng hóa tháng Mười Một ước tính đạt 112,5 triệu tấn, tăng 11% so với cùng kỳ năm trước và 20,4 tỷ tấn.km, tăng 4,3%. Tính chung 11 tháng, vận tải hàng hóa đạt 1.160,5 triệu tấn, tăng 10,9% so với cùng kỳ năm trước và 219,7 tỷ tấn.km, tăng 4,1%, trong đó vận tải trong nước đạt 1.130,4 triệu tấn, tăng 11,1% và 101,1 tỷ tấn.km, tăng 7,8%; vận tải ngoài nước đạt 30 triệu tấn, tăng 2,3% và 118,5 tỷ tấn.km, tăng 1,1%. Xét theo ngành vận tải, đường bộ đạt 902,2 triệu tấn, tăng 12,5% và 54,6 tỷ tấn.km, tăng 15,9% so với cùng kỳ năm trước; đường sông đạt 198,3 triệu tấn, tăng 6,6% và 41,2 tỷ tấn.km, tăng 6,7%; đường biển đạt 55,2 triệu tấn, tăng 4,8% và 120,4 tỷ tấn.km, giảm 0,5%; riêng đường sắt đạt 4,6 triệu tấn, giảm 24,3% và 2,9 tỷ tấn.km, giảm 25,4%. 

 

Vận tải hành khách và hàng hoá

Khách quốc tế đến Việt Nam

Khách quốc tế đến nước ta trong tháng Mười Một ước tính đạt 926,6 nghìn lượt người (đây là tháng có số lượng khách quốc tế đến Việt Nam lớn nhất từ trước đến nay), tăng 24,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ châu Á tăng 27,5%; từ châu Âu tăng 24,5%; từ châu Mỹ tăng 10,2%; từ châu Úc tăng 8,7%; từ châu Phi tăng 25,9%. So với tháng trước, khách quốc tế đến nước ta tăng 14,1%. Khách quốc tế đến nước ta tăng khá do trong tháng diễn ra nhiều hoạt động văn hóa thu hút được sự quan tâm của du khách như: Liên hoan phim quốc tế Hà Nội 2016, Ngày hội Hương sắc vùng cao tại Hà Nội, Ngày hội văn hóa dân tộc Mông toàn quốc tại Hà Giang, Lễ hội rượu vang Pháp tại Hà Nội, Lễ hội văn hóa, ẩm thực Việt Nam - Hàn Quốc…

Tính chung 11 tháng, khách quốc tế đến nước ta ước tính đạt 9.004 nghìn lượt người, tăng 25,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến bằng đường hàng không đạt 7.545,3 nghìn lượt người, tăng 32,5%; đến bằng đường bộ đạt 1.320,3 nghìn lượt người, giảm 0,9%; đến bằng đường biển đạt 138,4 nghìn lượt người, giảm 11,4%.

Trong 11 tháng năm nay, khách đến nước ta từ châu Á đạt 6.530,2 nghìn lượt người, tăng 30,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ hầu hết các thị trường chính, đặc biệt là 2 thị trường chiếm tỷ trọng lớn là Trung Quốc và Hàn Quốc vẫn tiếp tục tăng mạnh: Khách đến từ Trung Quốc đạt 2.480,2 nghìn lượt người, tăng 53,9%; Hàn Quốc 1.389,7 nghìn lượt người, tăng 39,2%; Nhật Bản 677 nghìn lượt người, tăng 10,5%; Đài Loan 465,2 nghìn lượt người, tăng 15,7%; Ma-lai-xi-a 359,3 nghìn lượt người, tăng 17%; Thái Lan 239,3 nghìn lượt người, tăng 29%; Xin-ga-po 223,1 nghìn lượt người, tăng 8,7%.

Khách đến từ châu Âu trong 11 tháng năm 2016 đạt 1.450,8 nghìn lượt người, tăng 17,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: khách đến từ Liên bang Nga 383,8 nghìn lượt người, tăng 29,1%; Vương quốc Anh 235,6 nghìn lượt người, tăng 20,8%; Pháp 220,7 nghìn lượt người, tăng 13,9%; Đức 160,6 nghìn lượt người, tăng 18,7%; Hà Lan 59,5 nghìn lượt người, tăng 23,5%; Tây Ban Nha 53,7 nghìn lượt người, tăng 27,7%; I-ta-li-a 47,2 nghìn lượt người, tăng 28,5%.

Khách đến từ châu Mỹ 11 tháng năm nay đạt 663,8 nghìn lượt người, tăng 12,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ Hoa Kỳ đạt 506,2 nghìn lượt người, tăng 13,4%. Khách đến từ châu Úc đạt 334,4 nghìn lượt người, tăng 7,7%, trong đó khách đến từ Ôx-trây-li-a đạt 293,8 nghìn lượt người, tăng 6,7%. Khách đến từ châu Phi đạt 24,8 nghìn lượt người, tăng 1% so với cùng kỳ năm 2015. 

 

Khách quốc tế đến Việt Nam

Một số tình hình xã hội

Thiếu đói trong nông dân

Trong tháng Mười Một, cả nước có 9,5 nghìn hộ thiếu đói, tương ứng với 38 nghìn nhân khẩu thiếu đói, trong đó tập trung chủ yếu tại các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung và Trung du, miền núi phía Bắc do ảnh hưởng của hạn hán kéo dài và mưa lũ. Tính chung 11 tháng năm 2016, cả nước có 263 nghìn lượt hộ thiếu đói, tăng 18% so với cùng kỳ năm trước, tương ứng với 1.088,4 nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói, tăng 17,6%. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm, các cấp, các ngành, các tổ chức từ Trung ương đến địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 18,4 nghìn tấn lương thựckhoảng 600 triệu đồng, riêng trong tháng 11 hỗ trợ khoảng 1,5 nghìn tấn lương thực.

Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm

Trong tháng 11/2016, cả nước có 9,2 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 45 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 60 trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút; 06 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu23 trường hợp nhiễm vi rút Zika. Tính chung 11 tháng, cả nước có 42,4 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 328 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 810 trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút (24 trường hợp tử vong); 53 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu (05 trường hợp tử vong) và 68 trường hợp nhiễm vi rút Zika. Dịch sốt xuất huyết tiếp tục bùng phát mạnh tại nhiều địa phương trên địa bàn cả nước, đặc biệt là các tỉnh vùng Tây Nguyên, duyên hải miền Trung, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long. Tính đến thời điểm này dịch bệnh sốt xuất huyết đã được ghi nhận tại 56/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với tổng số 96,3 nghìn trường hợp mắc bệnh, trong đó 30 trường hợp tử vong, riêng tháng 11 có 14,3 nghìn trường hợp mắc bệnh, trong đó 04 trường hợp tử vong.

Trong tháng đã phát hiện 2.225 trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống tính đến thời điểm 17/11/2016 là 231,4 nghìn người, trong đó 87,3 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS. Số người tử vong do HIV/AIDS của cả nước tính đến thời điểm trên là 89,3 nghìn người.

Trong tháng Mười Một đã xảy ra 8 vụ ngộ độc thực phẩm, làm 300 người bị ngộ độc, trong đó 03 trường hợp tử vong. Tính từ đầu năm đến nay, trên địa bàn cả nước xảy ra 119 vụ ngộ độc thực phẩm nghiêm trọng, làm 3.592 người bị ngộ độc, trong đó 12 trường hợp tử vong.

Tai nạn giao thông

Trong tháng (từ 16/10 đến 15/11), trên địa bàn cả nước đã xảy ra 2.180 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 998 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 1.182 vụ va chạm giao thông, làm 787 người chết, 633 người bị thương và 1.332 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông tháng 11 giảm 0,5% (Số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên tăng 4,7% và số vụ va chạm giao thông giảm 4,5%); số người chết tăng 0,1%; số người bị thương giảm 4,4% và số người bị thương nhẹ giảm 9,1%.

Tính chung 11 tháng năm nay, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 19.429 vụ
tai nạn giao thông, bao gồm 9.272 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 10.157 vụ va chạm giao thông, làm 7.907 người chết, 5.444 người bị thương và 11.740 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông trong 11 tháng năm 2016 giảm 6,8% (Số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 1,6%; số vụ va chạm giao thông giảm 11,1%); số người chết giảm 1,5%; số người bị thương giảm 2,2% và số người bị thương nhẹ giảm 13,7%. Bình quân 1 ngày trong 11 tháng, trên địa bàn cả nước xảy ra 58 vụ tai nạn giao thông, gồm 28 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 30 vụ va chạm giao thông, làm 24 người chết, 16 người bị thương và 35 người bị thương nhẹ.

Thiệt hại do thiên tai[2][9]

Trong tháng 11/2016, thiên tai đã làm 16 người chết, mất tích và 4 người bị thương; gần 300 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và 22,8 nghìn ngôi nhà bị sạt lở, tốc mái; 4,3 nghìn ha lúa, 8,3 nghìn ha hoa màu và gần 860 ha diện tích nuôi trồng thủy sản bị ngập, hư hỏng; 700 con gia súc và 68 nghìn gia cầm bị chết. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong tháng ước tính 734 tỷ đồng.

Tính chung 11 tháng năm 2016, thiên tai đã làm 189 người chết, mất tích và 446 người bị thương; gần 3,9 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và 259,7 nghìn ngôi nhà bị sạt lở, tốc mái; 240,1 nghìn ha lúa, 85,2 nghìn ha hoa màu, 120,1 nghìn ha cây lâm nghiệp, cây ăn quả và 46,1 nghìn ha diện tích nuôi trồng thủy sản bị ngập, hư hỏng; 55,6 nghìn con gia súc, 1,5 triệu gia cầm và hơn 1 nghìn tấn thủy sản các loại bị chết. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai trong 11 tháng năm nay ước tính hơn 15,7 nghìn tỷ đồng.

Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ

Trong tháng 11/2016, cơ quan chức năng đã phát hiện 1.400 vụ vi phạm quy định về bảo đảm vệ sinh môi trường, trong đó xử lý 1.061 vụ với tổng số tiền phạt là 14,2 tỷ đồng. Tính chung 11 tháng năm nay đã phát hiện 13.671 vụ vi phạm quy định về bảo đảm vệ sinh môi trường trên địa bàn cả nước, trong đó xử lý 7.519 vụ với tổng số tiền phạt 455 tỷ đồng.

Trong tháng, cả nước xảy ra 212 vụ cháy, nổ, làm 19 người chết và 34 người bị thương, thiệt hại ước tính 58 tỷ đồng. Tính chung 11 tháng năm 2016, trên địa bàn cả nước xảy ra 2.872 vụ cháy, nổ, làm 115 người chết và 258 người bị thương, thiệt hại ước tính khoảng 1.213 tỷ đồng./.

 

TỔNG CỤC THỐNG KÊ



[1][8] Chủ yếu do nhu cầu tiêu dùng thực phẩm tăng cao vào mùa cưới và giá mặt hàng rau, củ, quả tăng mạnh do ảnh hưởng mưa, lũ ở các tỉnh miền Trung và miền Nam.

[2][9] Chưa kể thiệt hại do tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn nghiêm trọng tại khu vực Nam Trung Bộ,
Tây Nguyên, Đông Nam Bộ
và Đồng bằng sông Cửu Long. 


[1][4] Trong 11 tháng năm 2016 ngành kinh doanh bất động sản có 11 dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với tổng số vốn điều chỉnh giảm 560,1 triệu USD.

[2][5] Thu cân đối ngân sách Trung ương đạt 74,2% dự toán; thu ngân sách địa phương đạt 98%.

[3][6] Nhập siêu từ Trung Quốc 11 tháng năm 2016 là 25 tỷ USD, giảm 15,5% so với cùng kỳ năm 2015.  

[4][7] Ước tính nhập siêu 200 triệu USD.


[1][1] 11 tháng năm 2015 ngành khai khoáng tăng 8%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,3%; sản xuất và phân phối điện tăng 11,8%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,1%.

 

[2][2] Số lao động doanh nghiệp thời điểm 01/11/2016 của Bà Rịa - Vũng Tàu tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước (trong khi chỉ số sản xuất công nghiệp giảm 4,2%) do có một số doanh nghiệp trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng quy mô và mở rộng sản xuất.

[3][3] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.


Các tin khác
© Copyright 2012 CỤC THỐNG KÊ TỈNH LÂM ĐỒNG
10 Đường 3 Tháng 4, Phường 3, TP. Đà Lạt