Tình hình kinh tế - xã hội
Tình hình kinh tế - xã hội 8 tháng năm 2016

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

Nông nghiệp

Sản xuất nông nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào gieo cấy, chăm sóc lúa mùa và thu hoạch lúa, hoa màu vụ hè thu. Tính đến ngày 15/8, cả nước đã gieo cấy được 1352,0 nghìn ha lúa mùa, bằng 98,9% cùng kỳ năm trước, trong đó các địa phương phía Bắc gieo cấy được 1127,1 nghìn ha, bằng 98,6% cùng kỳ năm trước; các địa phương phía Nam gieo cấy 224,9 nghìn ha, bằng 100,4% cùng kỳ năm trước. Tiến độ gieo cấy lúa mùa năm nay ở các tỉnh phía Bắc đạt thấp, trong đó vùng Đồng bằng sông Hồng cơ bản kết thúc gieo cấy với diện tích đạt 550,3 nghìn ha, giảm 1,4% so với cùng kỳ năm trước do các địa phương chuyển một phần diện tích trồng lúa sang phục vụ các công trình thủy lợi, khu công nghiệp[1], hoặc trồng cây ăn quả và nuôi thủy sản có hiệu quả kinh tế cao hơn. Một số địa phương có diện tích gieo cấy lúa mùa giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước: Hà Nội giảm 1424 ha, Bắc Ninh giảm 787 ha, Hà Nam giảm 518 ha.

Trong tháng, các địa phương ở miền Bắc chịu ảnh hưởng liên tiếp của bão số 1, số 2 và số 3, gây mưa lớn, ngập úng, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sản xuất lúa và hoa màu. Theo báo cáo sơ bộ, đã có trên 200 nghìn ha lúa và hoa màu ở các tỉnh phía Bắc bị ngập úng, trong đó gần 5 nghìn ha lúa bị mất trắng (Vĩnh Phúc mất trắng 2 nghìn ha; Hà Nam mất trắng 1,2 nghìn ha); gần 14,6 nghìn ha lúa phải gieo cấy lại[2].

Đến trung tuần tháng Tám, cả nước gieo cấy được 2112,2 nghìn ha lúa hè thu, tăng 2,1 nghìn ha so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích lúa hè thu ở các tỉnh Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung tăng 8,2 nghìn ha. Riêng vùng Đồng bằng sông Cửu Long, do ảnh hưởng của hạn hán, xâm nhập mặn nên diện tích chỉ đạt 1674,1 nghìn ha, giảm 3,7 nghìn ha so với cùng kỳ năm trước. Hiện nay, toàn bộ diện tích trà lúa hè thu sớm đã thu hoạch xong; phần diện tích lúa còn lại phát triển tốt, dự tính cuối tháng Tám sẽ thu hoạch xong toàn bộ diện tích.

Tính đến giữa tháng Tám, các địa phương phía Nam đã thu hoạch được 951,3 nghìn ha lúa hè thu, bằng 85,6% cùng kỳ năm trước, trong đó tập trung chủ yếu ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long với 949,8 nghìn ha, chiếm 56,7% diện tích gieo cấy và bằng 85,8% cùng kỳ năm trước. Theo báo cáo của các địa phương, năng suất lúa hè thu năm nay ước tính đạt 54 tạ/ha, xấp xỉ vụ hè thu năm trước, sản lượng ước tính đạt 11,4 triệu tấn.

Đến giữa tháng Tám, vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã gieo cấy được 481,4 nghìn ha lúa thu đông, bằng 110% cùng kỳ năm trước, trong đó một số tỉnh đạt khá: An Giang đạt 54,8  nghìn ha, gấp 3,4 lần; Long An đạt 39,9 nghìn ha, bằng 150%; Hậu Giang đạt 45,8 nghìn ha, bằng 103,9%; Đồng Tháp đạt 125,7 nghìn ha, bằng 101,7%.

 Gieo trồng hoa màu đạt thấp do ảnh hưởng của nắng nóng, hạn hán kéo dài. Tính đến ngày 15/8, các địa phương trên cả nước đã gieo trồng được 948,8 nghìn ha ngô, bằng 94,5% cùng kỳ năm trước; 100,3 nghìn ha khoai lang, bằng 84,2%; 75,1 nghìn ha đậu tương, bằng 84%; 177,4 nghìn ha lạc, bằng 97,4%; 933,3 nghìn ha rau, đậu, bằng 102,8%.

Chăn nuôi gia súc, gia cầm nhìn chung ổn định. Đàn trâu của cả nước trong tháng ước tính giảm 1% so với cùng kỳ năm trước; đàn bò tăng 2%, trong đó đàn bò sữa tăng 10%-15%; đàn lợn tăng 3,5%-4%; đàn gia cầm tăng 4,5%-5%. Tính đến thời điểm 24/8/2016, cả nước không còn dịch cúm gia cầm và dịch lở mồm long móng; dịch tai xanh trên lợn chưa qua 21 ngày còn ở Hậu Giang.

 

 

Lâm nghiệp

Trong tháng Tám, diện tích rừng trồng tập trung ước tính đạt 10,9 nghìn ha, giảm 8,4% so với cùng kỳ năm trước (chủ yếu do ảnh hưởng của thời tiết nắng nóng), trong đó diện tích rừng trồng tập trung của một số tỉnh giảm mạnh: Sơn La đạt 2650 ha, giảm 21,7%; Hòa Bình 619 ha, giảm 65,6%; Bắc Giang 426 ha, giảm 58,1%. Số cây lâm nghiệp trồng phân tán trong tháng đạt 9,7 triệu cây, tương đương cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác đạt 1176 nghìn m3, tăng 9,8%.

Tính chung 8 tháng, diện tích rừng trồng tập trung ước tính đạt 130,9 nghìn ha, giảm 2,2% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 131,2 triệu cây, giảm 0,7%; sản lượng gỗ khai thác đạt 5562 nghìn m3, tăng 10,7%; sản lượng củi khai thác đạt 19,2 triệu ste, tăng 0,5%.

Thời tiết nắng nóng cục bộ tại một số khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung nên vẫn xảy ra cháy rừng ở một số địa phương, trong đó diện tích rừng bị cháy của Hà Tĩnh là 49 ha; Bình Định là 38,8 ha; Phú Yên là 38,7 ha. Tính chung 8 tháng, diện tích rừng bị thiệt hại là 2990 ha, gấp 2,5 lần cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 2138 ha, gấp 2,9 lần; diện tích rừng bị chặt phá là 852 ha, gấp 1,8 lần.

Thủy sản

Sản lượng thủy sản tháng Tám ước tính đạt 589 nghìn tấn, tăng 1,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 397,2 nghìn tấn, tăng 2,2%; tôm đạt 101,8 nghìn tấn, giảm 3%. Sản lượng thủy sản nuôi trồng trong tháng ước tính đạt 339,1 nghìn tấn, tăng 0,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 230,3 nghìn tấn, tăng 2%; tôm đạt 83,8 nghìn tấn, giảm 3,9%.

Nuôi tôm có tín hiệu tích cực về thị trường tiêu thụ, giá tôm nguyên liệu tăng nhưng do ảnh hưởng của dịch bệnh những tháng đầu năm, tôm nuôi chậm lớn, ảnh hưởng đến sản lượng thu hoạch. Sản lượng tôm sú trong tháng ước tính đạt 23,3 nghìn tấn, giảm 19,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Cà Mau đạt 7,5 nghìn tấn, giảm 1,5%; Trà Vinh đạt 2,6 nghìn tấn, giảm 34,3%; Kiên Giang đạt 2,6 nghìn tấn, giảm 52,2%. Sản lượng tôm thẻ đạt 35,3 nghìn tấn, tăng 2%, trong đó Cà Mau đạt 4 nghìn tấn, tăng 21,2%; Trà Vinh đạt 3 nghìn tấn, tăng 33,9%; Bến Tre đạt 2,4 nghìn tấn, giảm 17,1%.

Nuôi cá tra vẫn gặp khó khăn về thị trường tiêu thụ và giá cả, đặc biệt giá cá tra quá lứa ở mức rất thấp do tác động của việc thị trường Trung Quốc ngừng mua sản phẩm này. Sản lượng cá tra trong tháng ước tính đạt 103,3 nghìn tấn, giảm 1,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Đồng Tháp đạt 34,9 nghìn tấn, tăng 0,5%; An Giang đạt 20,3 nghìn tấn, giảm 8,1%; Bến Tre đạt 7 nghìn tấn, giảm 15,3%, Vĩnh Long đạt 3,9 nghìn tấn, tăng 1%. Trong thời gian tới, ngành Thủy sản cần có giải pháp khuyến khích doanh nghiệp phát triển dòng sản phẩm cá tra chất lượng cao, đồng thời tăng cường xúc tiến thương mại, đa dạng hóa thị trường tiêu thụ.

Thời tiết mưa, bão trong tháng đã ảnh hưởng đến nuôi trồng[3] và khai thác thủy sản. Sản lượng thủy sản khai thác trong tháng ước tính đạt 249,9 nghìn tấn, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 166,9 nghìn tấn, tăng 2,3%, tôm đạt 18 nghìn tấn, tăng 1,7%.

Tính chung 8 tháng, sản lượng thủy sản ước tính đạt 4334,6 nghìn tấn, tăng 2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 2302,4 nghìn tấn, tăng 1,1%; sản lượng thủy sản khai thác đạt 2032,2 nghìn tấn, tăng 3,1% (sản lượng cá ngừ đại dương đạt 12,8 nghìn tấn, giảm 1,5%).

Sản xuất công nghiệp

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng Tám ước tính tăng 7,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng giảm 5,1%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,6%; sản xuất và phân phối điện tăng 11,9%; cung cấp nước và xử lý nước thải, rác thải tăng 6,1%.

Tính chung 8 tháng, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 6,9% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng 9,8% của cùng kỳ năm 2015[4], chủ yếu do ngành khai khoáng vẫn tiếp tục suy giảm[5], công nghiệp chế biến, chế tạo tăng thấp hơn cùng kỳ. Trong các ngành công nghiệp, ngành chế biến, chế tạo 8 tháng năm nay tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 6,8 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất, phân phối điện tăng 11,8%, đóng góp 0,8 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý nước thải, rác thải tăng 6,8%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 3,8%, làm giảm 0,8 điểm phần trăm mức tăng chung.

Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất 8 tháng tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất kim loại tăng 16,9%; dệt tăng 15,5%; sản xuất xe có động cơ tăng 15,3%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy tính và quang học tăng 14,1%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 13,1%. Một số ngành tăng thấp, hoặc giảm so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 5,4%; sản xuất thuốc lá tăng 4,1%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 3,1% (do xuất khẩu giày da sang Châu Âu gặp khó khăn); sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 2,6%; khai khoáng khác tăng 2,3%; khai thác than cứng và than non tăng 1,9%; khai thác dầu khô và khí đốt tự nhiên giảm 5,5%.

Trong 8 tháng năm nay, một số sản phẩm công nghiệp có chỉ số sản xuất tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Ti vi tăng 83,2%; thép cán tăng 22,3%; ô tô tăng 21,8%; thức ăn cho gia súc tăng 21,3%; sắt, thép thô tăng 15,9%; xi măng tăng 15,2%; khí hóa lỏng (LPG) tăng 13,8%; thép thanh, thép góc tăng 13,5%. Một số sản phẩm tăng thấp hoặc giảm: Than đá tăng 1,9%; xe máy giảm 0,7%; phân ure giảm 1,8%; vải dệt từ sợi tự nhiên giảm 3,4%; đường kính giảm 6,3%; dầu thô khai thác giảm 7,9%; phân hỗn hợp (NPK) giảm 9,1%; điện thoại di động giảm 9,6%.

Chỉ số sản xuất công nghiệp 8 tháng so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương như sau: Quảng Nam tăng 32,2%; Thái Nguyên tăng 31,1%; Hải Phòng tăng 16,3%; Đà Nẵng tăng 11,5%; Cần Thơ tăng 11,4%; Bình Dương tăng 8,9%; Đồng Nai tăng 8,1%; Bắc Ninh tăng 7,9%; Hải Dương tăng 7,8%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 7,3%; Hà Nội tăng 6,8%; Quảng Ninh tăng 5,6%; Vĩnh Phúc tăng 4%; Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 2%.

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 7/2016 tăng 4,4% so với tháng trước tăng 9,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 7 tháng, chỉ số tiêu thụ tăng 8,1% so với cùng kỳ năm 2015 (cùng kỳ năm 2015 tăng 13,3%), trong đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao: Sản xuất xe có động cơ tăng 16,7%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 16,2%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 11,5%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 10,7%; sản xuất kim loại tăng 10,5%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng thấp hoặc giảm: Sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 7,4%; dệt tăng 6,9%; thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 4,4%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 3,3%; sản xuất hóa chất và các sản phẩm hóa chất tăng 2,9%; sản xuất thuốc lá tăng 2,1%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 0,8%; sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 2,7%.

Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 01/8/2016 tăng 8,9% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm 2015 tăng 10,1%), trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm: Dệt tăng 8,6%; sản xuất kim loại tăng 4,5%; sản xuất hóa chất và các sản phẩm hóa chất tăng 4,2%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 4,1%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 4,3%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 12,3%; sản xuất thiết bị điện giảm 18,4%; sản xuất thuốc lá giảm 25,4%; sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 50%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao hơn nhiều so với mức tăng chung: Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 130%; sản xuất xe có động cơ tăng 30,9%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 26,4%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 24,4%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 20,7%.

Tỷ lệ tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bình quân 7 tháng năm 2016 là 69,1%, trong đó một số ngành có tỷ lệ tồn kho cao: Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn 130,8%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu 113,4%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất 105,7%; sản xuất chế biến thực phẩm 91,1%.

Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/8/2016 tăng 5% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm 0,7%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 1,9%; doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 8,1%. Tại thời điểm trên, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng giảm 4,8% so với cùng thời điểm năm trước; ngành chế biến, chế tạo tăng 5,7%; ngành cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 3,4%; ngành sản xuất, phân phối điện bằng mức cùng thời điểm năm trước.

Lao động của các doanh nghiệp tại thời điểm 01/8/2016 so với cùng thời điểm năm trước của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có quy mô công nghiệp lớn như sau: Thái Nguyên tăng 34%; Hải Phòng tăng 12,7%; Đồng Nai và Bình Dương cùng tăng 7,2%; Vĩnh Phúc tăng 6,2%; Bắc Ninh tăng 3,6%; Đà Nẵng tăng 3,1%; Hải Dương tăng 2,7%; Quảng Nam tăng 2,4%; Bà Rịa - Vũng Tàu tăng 1,9%; Hà Nội tăng 1%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 0,6%; Quảng Ninh giảm 0,3%; Quảng Ngãi giảm 3,4%.

 

 

Tình hình đăng ký doanh nghiệp[6]

Trong tháng Tám, cả nước có 9282 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 80 nghìn tỷ đồng, giảm 3,5% về số doanh nghiệp và tăng 2,6% về số vốn đăng ký so với tháng trước; vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 7,6 tỷ đồng, tăng 6,3%; tổng số lao động đăng ký trong tháng của các doanh nghiệp thành lập mới là 112,8 nghìn người, tăng 13,7%. So với cùng kỳ năm trước, số doanh nghiệp thành lập mới giảm 0,2%; số vốn đăng ký tăng 28,7%; vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp tăng 28,9%. Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới trong tháng giảm nhẹ do thời gian này trùng với thời điểm tháng Bảy âm lịch, người dân có tâm lý hạn chế khởi sự kinh doanh. Tuy nhiên, với số vốn đăng ký và vốn bình quân một doanh nghiệp tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước cho thấy các nhà đầu tư đã đặt niềm tin vào triển vọng của nền kinh tế.

Trong tháng, cả nước có 2005 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 11,1% so với tháng trước; có 5092 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động (bao gồm: 1531 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động có thời hạn và 3561 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể), giảm 14,2%; có 1057 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động, tăng 15,5%.

Tính chung 8 tháng năm nay, cả nước có 73404 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 567,9 nghìn tỷ đồng, tăng 19,7% về số doanh nghiệp và tăng 50,9% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2015; số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 7,7 tỷ đồng, tăng 26%[7]. Tổng số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới trong 8 tháng là 857,2 nghìn người, bằng 98,2% cùng kỳ năm 2015.

Theo lĩnh vực hoạt động, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới 8 tháng năm nay tăng so với cùng kỳ năm trước ở hầu hết các ngành, lĩnh vực, trong đó một số ngành tăng mạnh cả về số doanh nghiệp và số vốn đăng ký: Kinh doanh bất động sản tăng 101,3% về số doanh nghiệp và tăng 268,4%  về vốn đăng ký; khai khoáng tăng 8,8% và tăng 247%; thông tin và truyền thông tăng 15,2% và tăng 183%; sản xuất, phân phối điện, nước, gas tăng 21,5% và tăng 120%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 24% và tăng 106,7%; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 74% và tăng 65,8%; hoạt động dịch vụ khác tăng 46,7% và tăng 111,1%; giáo dục và đào tạo tăng 41,9% và tăng 21,7%; tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 24,6% và tăng 35,1%... Riêng lĩnh vực nghệ thuật, vui chơi và giải trí, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới trong 8 tháng giảm 34% so với cùng kỳ năm trước; số vốn đăng ký giảm 22,1%.

Bên cạnh đó, trong 8 tháng năm nay còn có 1024,6 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của các doanh nghiệp thay đổi tăng vốn, nâng tổng số vốn đăng ký và bổ sung thêm vào nền kinh tế trong 8 tháng đạt 1592,5 nghìn tỷ đồng.

Số doanh nghiệp ngừng hoạt động quay trở lại hoạt động trong 8 tháng năm nay là 18711 doanh nghiệp, tăng 65,1% so với cùng kỳ năm trước (8 tháng năm 2015 tăng 3,7% so với cùng kỳ năm 2014). Số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất, kinh doanh trong 8 tháng là 7479 doanh nghiệp, tăng 18,9% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2015 giảm 1,2% so với năm 2014), trong đó có 6974 doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng, chiếm 93,2% và tăng 18,7%. Nếu phân theo loại hình doanh nghiệp, trong tổng số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động có 2999 công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên (chiếm 40,1%); 2232 công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên (chiếm 29,8%); 1255 doanh nghiệp tư nhân (chiếm 16,8%); 991 công ty cổ phần (chiếm 13,3%) và 02 công ty hợp danh.

Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động trong 8 tháng năm nay là 40419 doanh nghiệp, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm 14924 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động có thời hạn, tăng 32,7% và 25495 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể, giảm 8,3%.

Trong tổng số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động có thời hạn, có 5611 công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên (chiếm 37,6%); 5102 công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên (chiếm 34,2%); 2602 công ty cổ phần (chiếm 17,4%); 1608 doanh nghiệp tư nhân (chiếm 10,8%) và 01 công ty hợp danh. Đối với doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể, có 10538 công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên (chiếm 41,3%); 8012 công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên (chiếm 31,4%); 4599 công ty cổ phần (chiếm 18,0%) và 2346 doanh nghiệp tư nhân (chiếm 9,2%). Theo lĩnh vực hoạt động, có 40,1% số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động có thời hạn và 44,9% số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể hoạt động trong ngành bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy; tiếp đến là ngành xây dựng với tỷ lệ tương ứng là 14,6% và 12,6%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là 13,2% và 11,2%; các ngành còn lại chiếm tỷ lệ tương ứng là 32,1% và 31,3%.  

Đầu tư

Tình hình thực hiện vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước trong tháng đạt khá hơn những tháng đầu năm. Các Bộ, ngành, địa phương tích cực triển khai, thực hiện Nghị quyết số 60/NQ-CP ngày 08/7/2016 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2016, tập trung rà soát, hoàn thiện các văn bản pháp lý; đẩy nhanh việc đền bù, giải phóng mặt bằng; chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nhằm đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn.

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Tám ước tính đạt 24127 tỷ đồng, tăng 14,8% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn trung ương 6185 tỷ đồng, tăng 17,2%; vốn địa phương 17942 tỷ đồng, tăng 14%. Tính chung 8 tháng, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 155,3 nghìn tỷ đồng, bằng 60,1% kế hoạch năm và tăng 12,9% so với cùng kỳ năm 2015, gồm có:

- Vốn trung ương quản lý đạt 36,5 nghìn tỷ đồng, bằng 58,2% kế hoạch năm và tăng 17,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giao thông Vận tải đạt 13,4 nghìn tỷ đồng, bằng 74,9% và tăng 31,1%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 4244 tỷ đồng, bằng 60,1% và tăng 23,7%; Bộ Y tế 1749 tỷ đồng, bằng 56,3% và tăng 21,4%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 1667 tỷ đồng, bằng 51,7% và tăng 43,5%; Bộ Xây dựng 617 tỷ đồng, bằng 66,5% và giảm 42,8%; Bộ Tài nguyên và Môi trường 446 tỷ đồng, bằng 49,7% và tăng 6,7%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 335 tỷ đồng, bằng 49,4% và giảm 0,9%; Bộ Công Thương 289 tỷ đồng, bằng 62,2% và tăng 18,5%; Bộ Khoa học và Công nghệ 185 tỷ đồng, bằng 63,8% và giảm 9,9%; Bộ Thông tin và Truyền thông 75 tỷ đồng, bằng 55,2% và giảm 34,7%.

- Vốn địa phương quản lý đạt 118,8 nghìn tỷ đồng, bằng 60,7% kế hoạch năm và tăng 11,4% so với cùng kỳ năm 2015. Trong đó, vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 84,1 nghìn tỷ đồng, bằng 58,5% và tăng 14,5%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 28,7 nghìn tỷ đồng, bằng 64,6% và tăng 6,5%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 6 nghìn tỷ đồng, bằng 80% và giảm 3,8%. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như sau: Hà Nội đạt 19,7 nghìn tỷ đồng, bằng 64,5% kế hoạch năm và tăng 39,9% so với cùng kỳ năm trước; thành phố Hồ Chí Minh 10,7 nghìn tỷ đồng, bằng 60,3% và tăng 1,8%; Nghệ An 3563 tỷ đồng, bằng 61,7% và tăng 13,2%; Bình Dương 3510 tỷ đồng, bằng 54,6% và tăng 35,5%; Quảng Ninh 3086 tỷ đồng, bằng 48,2% và tăng 8,9%; Vĩnh Phúc 3063 tỷ đồng, bằng 58% và tăng 6,9%; Bà Rịa - Vũng Tàu 2939 tỷ đồng, bằng 47,9% và tăng 6%.

Đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20/8/2016 thu hút 1619 dự án cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 9795,6 triệu USD, tăng 32,8% về số dự án và tăng 24,3% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2015. Bên cạnh đó, có 770 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn với số vốn tăng thêm đạt 4571,1 triệu USD. Như vậy, tổng vốn đăng ký của các dự án cấp mới và vốn bổ sung trong 8 tháng năm nay đạt 14366,7 triệu USD, tăng 7,7% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 8 tháng ước tính đạt 9,8 tỷ USD, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm 2015.

Trong 8 tháng năm nay, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất với số vốn đăng ký của các dự án được cấp phép mới đạt 6734,6 triệu USD, chiếm 68,7% tổng vốn đăng ký cấp mới; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 859,3 triệu USD, chiếm 8,8%; các ngành còn lại đạt 2201,7 triệu USD, chiếm 22,5%. Nếu tính cả vốn đăng ký bổ sung của các dự án đã cấp phép từ các năm trước, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 8 tháng năm nay đạt 10534,8 triệu USD, chiếm 73,3% tổng vốn đăng ký; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 836,3 triệu USD[8], chiếm 5,8%; các ngành còn lại đạt 2995,6 triệu USD, chiếm 20,9%.

Cả nước có 47 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới trong 8 tháng, trong đó Hải Phòng có số vốn đăng ký lớn nhất với 1861,1 triệu USD, chiếm 19% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Hà Nội 963,6 triệu USD, chiếm 9,8%; Bình Dương 897,8 triệu USD, chiếm 9,2%; Đồng Nai 753,7 triệu USD, chiếm 7,7%; thành phố Hồ Chí Minh 710,5 triệu USD, chiếm 7,3%; Hà Nam 575,2 triệu USD, chiếm 5,9%; Bắc Ninh 422,7 triệu USD, chiếm 4,3%.

Trong số 56 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cấp mới tại Việt Nam 8 tháng năm nay, Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với 3840,8 triệu USD, chiếm 39,2% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Xin-ga-po 1371,1 triệu USD, chiếm 14%; Đặc khu Hành chính Hồng Công (TQ) 818,1 triệu USD, chiếm 8,4%; Đài Loan 558,5 triệu USD, chiếm 5,7%; Trung Quốc 552,5 triệu USD, chiếm 5,6%; Nhật Bản 552 triệu USD, chiếm 5,6%.

 

 
Thu, chi ngân sách Nhà nước

Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/8/2016 ước tính đạt 603,7 nghìn tỷ đồng, bằng 59,5% dự toán năm, trong đó thu nội địa đạt 486,2 nghìn tỷ đồng, bằng 61,9%; thu từ dầu thô đạt 24,6 nghìn tỷ đồng, bằng 45,2%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu đạt 90,2 nghìn tỷ đồng, bằng 52,4%. Tiến độ thu ngân sách Nhà nước 8 tháng đạt thấp chủ yếu do ảnh hưởng của giá dầu giảm và tác động của chuyển hướng thương mại, chuyển dịch cơ cấu hàng hóa nhập khẩu khi tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTAs). Trong thu nội địa, thu tiền sử dụng đất đạt khá với 48,3 nghìn tỷ đồng, bằng 96,7% dự toán năm; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước đạt 97,4 nghìn tỷ đồng, bằng 67,9%; thuế thu nhập cá nhân 42,4 nghìn tỷ đồng, bằng 66,7%; thuế bảo vệ môi trường 25 nghìn tỷ đồng, bằng 65,1%; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 97,1 nghìn tỷ đồng, bằng 61,1%. Riêng thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước đạt 126,1 nghìn tỷ đồng, chỉ bằng 49,2% dự toán năm, chủ yếu do hoạt động sản xuất kinh doanh của các tập đoàn, công ty trong lĩnh vực khai thác, chế biến dầu khí, than, khoáng sản và thủy điện gặp khó khăn.

Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/8/2016 ước tính đạt 715,2 nghìn tỷ đồng, bằng 56,2% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển đạt 107,2 nghìn tỷ đồng, bằng 42,1%; chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính đạt 506,7 nghìn tỷ đồng, bằng 61,5%; chi trả nợ và viện trợ đạt 96,2 nghìn tỷ đồng, bằng 62%.

Thương mại, giá cả, vận tải và du lịch

Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Trong tháng Tám, do ảnh hưởng của mưa bão, lũ quét, sạt lở đất tại khu vực miền núi phía Bắc và miền Trung cùng với tâm lý hạn chế chi tiêu, mua sắm trong “tháng Ngâu” nên hoạt động kinh doanh dịch vụ, du lịch, lưu trú, ăn uống có xu hướng giảm so với tháng trước. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Tám ước tính đạt 292,8 nghìn tỷ đồng, giảm 0,3% so với tháng trước và tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 223,6 nghìn tỷ đồng, tăng 0,6% và tăng 9,5%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 33,8 nghìn tỷ đồng, giảm 4% và tăng 4,6%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 3 nghìn tỷ đồng, giảm 5,4% và tăng 0,5%; doanh thu dịch vụ khác đạt 32,4 nghìn tỷ đồng, giảm 2% và tăng 9,2%.

Tính chung 8 tháng, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 2307,7 nghìn tỷ đồng, tăng 9,3% (thấp hơn mức tăng 10,5% cùng kỳ năm 2015), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 7,3% (cùng kỳ năm 2015 tăng 9,2%). Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa 8 tháng ước tính đạt 1758,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 76,2% tổng mức và tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số ngành hàng tăng khá: Lương thực, thực phẩm tăng 14%; may mặc tăng 11,9%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 11,1%; phương tiện đi lại tăng 7,5%; vật phẩm văn hoá, giáo dục tăng 3,5%.

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 8 tháng ước tính đạt 263,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,4% tổng mức và tăng 6,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu của Hà Nội tăng 4,7%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 5,3%; Đà Nẵng tăng 9,2%; Lâm Đồng và Thừa Thiên - Huế tăng 9,4%; Thái Nguyên giảm 4,9%; Thái Bình giảm 0,4%; Hưng Yên giảm 0,5%.  

Doanh thu du lịch lữ hành 8 tháng năm nay ước tính đạt 21,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,9% tổng mức và tăng 7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu du lịch lữ hành của Hà Nội tăng 9,2%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 4,8%; Bà Rịa-Vũng Tàu tăng 13%; Long An tăng 10,6%; Trà Vinh tăng 8,8%; Bình Thuận tăng 8,7%; Thái Bình giảm 0,7%; Bến Tre giảm 1,2%; Hải Dương giảm 1,7%; Tây Ninh giảm 2,3%.

Doanh thu dịch vụ khác 8 tháng ước tính đạt 264,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,5% tổng mức và tăng 9% so với cùng kỳ năm 2015. Một số địa phương có doanh thu tăng khá: Khánh Hòa tăng 14,8%; Đà Nẵng tăng 12,8%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 10,4%, Hà Nội tăng 5,5%.

 

 

 Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thực hiện tháng Bảy đạt 14908 triệu USD, cao hơn 208 triệu USD so với số ước tính, trong đó điện thoại và linh kiện cao hơn 180 triệu USD; sắt thép cao hơn 52 triệu USD; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác cao hơn 46 triệu USD; thủy sản cao hơn 41 triệu USD; cao su cao hơn 36 triệu USD; giày dép thấp hơn 91 triệu USD; hàng dệt may thấp hơn 81 triệu USD; dầu thô thấp hơn 44 triệu USD.

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Tám ước tính đạt 15,20 tỷ USD, tăng 2% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 4,54 tỷ USD, tăng 2,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 10,66 tỷ USD, tăng 1,6%. Kim ngạch một số mặt hàng tăng so với tháng trước: Rau, quả tăng 10,5%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 11,7 %; gạo tăng 39,5% về lượng và tăng 38,8% về giá trị; sắn và các sản phẩm từ sắn tăng 46,8% về lượng và tăng 37,1% về giá trị. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Tám tăng 5,6%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 11,0%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 3,4%. Một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng khá: Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng tăng 29,7%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 20,2%; giày dép tăng 17,6%; thủy sản tăng 7%.

Tính chung 8 tháng năm nay, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 112,19 tỷ USD, tăng 5,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 32,62 tỷ USD, tăng 4,0%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 79,57 tỷ USD, tăng 6,1%. Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực tăng so với cùng kỳ năm trước: Điện thoại và linh kiện đạt 22,3 tỷ USD, tăng 10,6%; hàng dệt may đạt 15,5 tỷ USD, tăng 4,2%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 11,1 tỷ USD, tăng 11,2%; giày dép đạt 8,6 tỷ USD, tăng 8,1%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt 6,2 tỷ USD, tăng 20,6%; thủy sản đạt 4,3 tỷ USD, tăng 4,8%; cà phê đạt 2,2 tỷ USD, tăng 19,6%; túi xách, vali, mũ, ô dù đạt 2,2 tỷ USD, tăng 12,1%; hạt điều đạt 1,8 tỷ USD, tăng 13,3%; rau quả đạt 1,6 tỷ USD, tăng 28%. Một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu giảm: Gạo đạt 1,5 tỷ USD, giảm 13,9% so với cùng kỳ năm trước (lượng giảm 17,4%) do nhu cầu nhập khẩu gạo từ một số thị trường lớn giảm[9]; dầu thô đạt gần 1,5 tỷ USD, giảm 46,2% (lượng giảm 25,7%; giá dầu thô xuất khẩu bình quân 8 tháng giảm 27,6%); cao su đạt 887 triệu USD, giảm 3,8% (lượng tăng 11,3%) do giá cao su xuất khẩu bình quân giảm 13,6%, trong khi cao su tổng hợp từ dầu thô có mức giá hấp dẫn hơn; sắn và sản phẩm của sắn đạt 698 triệu USD, giảm 25,7% (lượng giảm 13,4%) do nhu cầu từ hai thị trường lớn là Trung Quốc và Hàn Quốc sụt giảm[10].

Về thị trường xuất khẩu 8 tháng, Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với 24,6 tỷ USD, tăng 13% so với cùng kỳ năm 2015. Tiếp đến là EU đạt 21,9 tỷ USD, tăng 8,8%; Trung Quốc đạt 12,6 tỷ USD, tăng 15%; Nhật Bản đạt 9,3 tỷ USD, tăng 0,2%; Hàn Quốc đạt 7 tỷ USD, tăng 30,7%. Riêng xuất khẩu sang thị trường ASEAN đạt 11,1 tỷ USD, giảm 10% do xuất khẩu dầu thô sang thị trường này giảm mạnh.

Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu thực hiện tháng Bảy đạt 14344 triệu USD, thấp hơn 256 triệu USD so với số ước tính, trong đó máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác thấp hơn 114 triệu USD; xăng dầu thấp hơn 56 triệu USD; vải thấp hơn 42 triệu USD; nguyên phụ liệu dệt may, giày dép thấp hơn 34 triệu USD; kim loại thường khác thấp hơn 29 triệu USD; sắt thép thấp hơn 22 triệu USD; tân dược thấp hơn 21 triệu USD; điện thoại và linh kiện cao hơn 94 triệu USD; điện tử, máy tính và linh kiện cao hơn 46 triệu USD.

Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Tám ước tính đạt 15,00 tỷ USD, tăng 4,6% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 6,15 tỷ USD, tăng 4,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 8,85 tỷ USD, tăng 4,4%. Kim ngạch một số mặt hàng phục vụ sản xuất tăng so với tháng trước: Điện tử máy tính và linh kiện tăng 4,3%; máy móc, thiết bị dụng cụ và phụ tùng khác tăng 7,3%; sắt thép tăng 8,7%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Tám tăng 6,2%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 3,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 8,2%.

Tính chung 8 tháng, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu ước tính đạt 109,74 tỷ USD, giảm 0,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 45,35 tỷ USD, tăng 0,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 64,39 tỷ USD, giảm 0,8%. Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng giảm: Máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt 17,7 tỷ USD, giảm 4,2%; điện thoại và linh kiện đạt 6,5 tỷ USD, giảm 9,2%; nguyên phụ liệu dệt may, giày dép đạt 3,4 tỷ USD, giảm 0,3%; xăng dầu đạt 3 tỷ USD, giảm 17,1% (lượng tăng 22,9%); thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu đạt 2,1 tỷ USD, giảm 5,8%; hóa chất đạt 2 tỷ USD, giảm 5,1%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 1,1 tỷ USD, giảm 21,2%; phân bón đạt 748 triệu USD, giảm 18,6%. Bên cạnh đó, kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất trong nước tăng so với cùng kỳ năm trước: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 17,5 tỷ USD, tăng 15,5%; vải đạt 6,8 tỷ USD, tăng 2,3%; sắt thép đạt 5,3 tỷ USD, tăng 2,1%; kim loại thường khác đạt 3 tỷ USD, tăng 13,9%; sản phẩm chất dẻo đạt 2,8 tỷ USD, tăng 15,4%; sản phẩm hóa chất đạt 2,4 tỷ USD, tăng 9,9%; sợi dệt đạt 1 tỷ USD, tăng 2,8%.

Về thị trường nhập khẩu, trong 8 tháng năm nay nhập khẩu từ một số thị trường chủ yếu giảm so với cùng kỳ năm trước, trong đó nhập khẩu từ Trung Quốc đạt 31,6 tỷ USD, giảm 2,8% so với cùng kỳ năm 2015[11]; ASEAN đạt 15,2 tỷ USD, giảm 3,4%; Nhật Bản đạt 9,5 tỷ USD, giảm 2,5%; EU đạt 6,9 tỷ USD, giảm 0,2%; Hoa Kỳ đạt 5,2 tỷ USD, giảm 3,3%. Riêng nhập khẩu từ Hàn Quốc đạt 20,3 tỷ USD, tăng 9,3% do nhập khẩu mặt hàng xăng và điện tử, máy tính, linh kiện tăng mạnh.

Cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng Bảy xuất siêu 564 triệu USD[12]. Tháng Tám ước tính xuất siêu 200 triệu USD, tính chung 8 tháng xuất siêu 2,45 tỷ USD (cùng kỳ năm 2015 nhập siêu 3,6 tỷ USD), trong đó khu vực trong nước nhập siêu 12,73 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 15,18 tỷ USD.

 

 

Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 8/2016 tăng 0,1% so với tháng trước, trong đó nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng cao nhất với 6,18% (dịch vụ y tế tăng 8,12%) do trong tháng có 16 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương[13] thực hiện điều chỉnh tăng giá dịch vụ y tế bước 2 theo Thông tư liên tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTC ngày 29/10/2015 của Bộ Y tế và Bộ Tài chính (tác động làm CPI chung tăng khoảng 0,28%). Nhóm giáo dục tăng 0,47%, trong đó dịch vụ giáo dục tăng 0,5% do có 9 tỉnh, thành phố thực hiện lộ trình tăng học phí theo Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Chính Phủ. Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,14%; đồ uống và thuốc lá; thiết bị và đồ dùng gia đình cùng tăng 0,05%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm: Giao thông giảm 1,97% do giá xăng dầu được điều chỉnh giảm vào các thời điểm 20/7/2016 và 04/8/2016 (làm chỉ số giá nhóm nhiên liệu giảm 4,1%, tác động làm CPI chung giảm 0,17%); hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,14% (Lương thực giảm 0,35%, thực phẩm giảm 0,19% do nguồn cung trong nước dồi dào); văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,12%; bưu chính viễn thông giảm 0,03%; nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 0,02%.

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 8/2016 tăng 2,58% so với tháng 12/2015 và tăng 2,57% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 8 tháng năm nay tăng 1,91% so với bình quân cùng kỳ năm 2015.

Lạm phát cơ bản tháng 8/2016 tăng 0,09% so với tháng trước và tăng 1,83% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân 8 tháng tăng 1,81% so với bình quân cùng kỳ năm 2015.

Giá vàng trong nước tăng theo biến động của giá vàng thế giới. Chỉ số giá vàng tháng 8/2016 tăng 1,72% so với tháng trước; tăng 17,54% so với tháng 12/2015 và tăng 17,50% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 8/2016 giảm 0,05% so với tháng trước; giảm 1,07% so với tháng 12/2015 và tăng 1,84% so với cùng kỳ năm 2015.

 

 
 

Vận tải hành khách và hàng hóa

Vận tải hành khách tháng Tám ước tính đạt 297,5 triệu lượt khách, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước và 14,5 tỷ lượt khách.km, tăng 16,1%. Tính chung 8 tháng, vận tải hành khách đạt 2408 triệu lượt khách, tăng 9,3% so với cùng kỳ năm trước và 113,5 tỷ lượt khách.km, tăng 9,6%, trong đó vận tải hành khách đường bộ đạt 2260,6 triệu lượt khách, tăng 9,5% và 75,9 tỷ lượt khách.km, tăng 7,9%; đường biển đạt 4 triệu lượt khách, tăng 3,9% và 202,5 triệu lượt khách.km, tăng 2,5%. Vận tải bằng đường hàng không tăng mạnh, đạt 26,4 triệu lượt khách, tăng 27,3% và 32,8 tỷ lượt khách.km, tăng 17,4% do các hãng hàng không trong nước đẩy mạnh khai thác thị trường nội địa. Vận tải đường sắt đạt 7,2 triệu lượt khách, giảm 11,4% và 2,6 tỷ lượt khách.km, giảm 17,2% do thời gian đi lại chưa cải thiện nhiều, giá vé chưa cạnh tranh được với hàng không giá rẻ và vận tải đường bộ.

Vận tải hàng hóa tháng Tám ước tính đạt 106,5 triệu tấn, tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước và 20,3 tỷ tấn.km, tăng 10,6%. Tính chung 8 tháng, vận tải hàng hóa đạt 829,2 triệu tấn, tăng 9% so với cùng kỳ năm trước và 158,9 tỷ tấn.km, tăng 3,6%, trong đó vận tải trong nước đạt 807,4 triệu tấn, tăng 9,2% và 72,5 tỷ tấn.km, tăng 6,4%; vận tải ngoài nước đạt 21,8 triệu tấn, tăng 2,5% và 86,4 tỷ tấn.km, tăng 1,4%. Xét theo ngành vận tải, đường bộ đạt 644,2 triệu tấn, tăng 10,3% và 39 tỷ tấn.km, tăng 12,1% so với cùng kỳ năm trước; đường sông đạt 141,8 triệu tấn, tăng 5,9% và 29,4 tỷ tấn.km, tăng 5,4%; đường biển đạt 39,5 triệu tấn, tăng 3% và 88 tỷ tấn.km, tăng 0,6%; riêng đường sắt đạt 3,4 triệu tấn, giảm 24,6% và 2,1 tỷ tấn.km, giảm 26,8% chủ yếu do ảnh hưởng từ sự cố sập cầu Ghềnh (Đồng Nai) trong những tháng gần đây.

 

Vận tải hành khách và hàng hoá

 

Khách quốc tế đến Việt Nam

Khách quốc tế đến nước ta trong tháng Tám ước tính đạt 899,7 nghìn lượt người, tăng 6,3% so với tháng trước, là tháng có lượng khách quốc tế đến cao nhất kể từ đầu năm 2016. Mặc dù đang là thời điểm cuối mùa du lịch, nhưng lượng khách quốc tế đến nước ta trong tháng vẫn tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước (tăng 34,4%), trong đó khách đến từ châu Á tăng 39,6%; từ châu Âu tăng 24,7%; từ châu Mỹ tăng 17,3%; từ châu Úc tăng 13,8%; từ châu Phi tăng 12,4%.

Tính chung 8 tháng, khách quốc tế đến nước ta ước tính đạt 6452,4 nghìn lượt người, tăng 25,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến bằng đường hàng không đạt 5438,9 nghìn lượt người, tăng 28,5%; đến bằng đường bộ đạt 914,6 nghìn lượt người, tăng 14,5%; đến bằng đường biển đạt 98,9 nghìn lượt người, giảm 15,4%.

Trong 8 tháng năm nay, khách đến nước ta từ châu Á đạt 4634,8 nghìn lượt người, tăng 30,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ hầu hết các thị trường chính, nhất là 2 thị trường chiếm tỷ trọng lớn là Trung Quốc và Hàn Quốc tăng mạnh: Khách đến từ Trung Quốc đạt 1752,5 nghìn lượt người, tăng 57,9%; Hàn Quốc 1005,1 nghìn lượt người, tăng 37,6%; Nhật Bản 482,4 nghìn lượt người, tăng 12,1%; Đài Loan 341,3 nghìn lượt người, tăng 15,4%; Ma-lai-xi-a 252,4 nghìn lượt người, tăng 14,7%; Thái Lan 171,4 nghìn lượt người, tăng 34,9%; Xin-ga-po 159,5 nghìn lượt người, tăng 9,2%.

Chính sách gia hạn miễn thị thực cho công dân các nước: Vương quốc Anh, Cộng hòa Pháp, Cộng hoà liên bang Đức, Vương quốc Tây Ban Nha và Cộng hòa Italy  theo Nghị quyết số 56/NQ-CP ngày 20/6/2016 của Chính phủ đã góp phần đưa lượng khách đến từ châu Âu tăng mạnh, đặc biệt là từ 5 quốc gia trên[14]. Tính chung 8 tháng, lượng khách đến từ châu Âu ước tính đạt 1049,1 nghìn lượt người, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ Liên bang Nga đạt 265,6 nghìn lượt người, tăng 25%; Vương quốc Anh 172,8 nghìn lượt người, tăng 22,8%; Pháp 166,1 nghìn lượt người, tăng 13,4%; Đức 113,4 nghìn lượt người, tăng 17,7%; Hà Lan đạt 44,2 nghìn lượt người, tăng 23,7%; Tây Ban Nha 35,6 nghìn lượt người, tăng 27,6%;
I-ta-li-a 35 nghìn lượt người, tăng 31,8%.

Khách đến từ châu Mỹ đạt 503,7 nghìn lượt người, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ Hoa Kỳ đạt 386,8 nghìn lượt người, tăng 14,8%. Khách đến từ châu Úc đạt 247 nghìn lượt người, tăng 6,7% so với cùng kỳ năm 2015, trong đó khách đến từ Ôx-trây-li-a đạt 219 nghìn lượt người, tăng 6,7%. Khách đến từ châu Phi đạt 17,8 nghìn lượt người, bằng 95,6% cùng kỳ năm 2015.

 

Khách quốc tế đến Việt Nam

 

Một số tình hình xã hội

Thiếu đói trong nông dân

Trong tháng Tám, cả nước có 9,1 nghìn hộ thiếu đói, giảm 60,8% so với tháng trước, tương ứng với 37,4 nghìn nhân khẩu thiếu đói, giảm 61,6%. So với cùng kỳ năm trước, số hộ thiếu đói giảm 64,5%, số nhân khẩu thiếu đói giảm 65,5%. Thiếu đói trong tháng tập trung chủ yếu tại các địa phương thuộc Trung du và miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, duyên hải miền Trung và Tây Nguyên, trong đó số hộ thiếu đói tại Đắk Lắk là 4,1 nghìn hộ; Cao Bằng 2,2 nghìn hộ; Lào Cai 1,1 nghìn hộ. Tính chung 8 tháng năm 2016, cả nước có 243,5 nghìn lượt hộ thiếu đói, tương ứng với 1008,7 nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói, tăng 14% về số lượt hộ và số lượt nhân khẩu thiếu đói so với cùng kỳ năm trước. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm, các cấp, các ngành, các tổ chức từ Trung ương đến địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 16 nghìn tấn lương thực và khoảng 600 triệu đồng, riêng tháng Tám hỗ trợ gần 600 tấn lương thực.

Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm

Trong tháng 8/2016, cả nước có 5,5 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 51 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 157 trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút (06 trường hợp tử vong); 168 trường hợp mắc bệnh ho gà (tại Cao Bằng). Tính chung 8 tháng, cả nước có hơn 24,1 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 208 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 570 trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút (11 trường hợp tử vong); 33 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu (05 trường hợp tử vong); 168 trường hợp mắc bệnh ho gà; 03 trường hợp mắc và tử vong do bệnh bạch hầu. Đáng lưu ý là dịch sốt xuất huyết đang có nguy cơ bùng phát mạnh tại các tỉnh vùng Tây Nguyên, duyên hải miền Trung, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long do bắt đầu vào mùa mưa, là môi trường thuận lợi cho muỗi lây truyền dịch phát triển. Trong tháng 8 có thêm 11,9 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (04 trường hợp tử vong), nâng tổng số trường hợp mắc bệnh tính từ đầu năm đến nay là 56,8 nghìn người (18 trường hợp tử vong).

Tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống tính đến thời điểm 17/8/2016 là 228,6 nghìn người, trong đó 86,5 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS. Số người tử vong do HIV/AIDS của cả nước tính đến thời điểm trên là 88,2 nghìn người.

Trong tháng Tám đã xảy ra 20 vụ ngộ độc thực phẩm, làm 493 người bị ngộ độc, trong đó 02 trường hợp tử vong. Tính từ đầu năm đến nay, trên địa bàn cả nước xảy ra 92 vụ ngộ độc thực phẩm nghiêm trọng, làm 2904 người bị ngộ độc, trong đó 08 trường hợp tử vong.

Tai nạn giao thông

Trong tháng (từ 16/7 đến 15/8), trên địa bàn cả nước đã xảy ra 1760 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 813 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 947 vụ va chạm giao thông, làm 705 người chết, 430 người bị thương và 1065 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông tăng 2,8% (Số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên tăng 7%; số vụ va chạm giao thông giảm 0,5%); số người chết tăng 7,8%; số người bị thương giảm 2,9% và số người bị thương nhẹ giảm 7,2%.

Tính chung 8 tháng năm nay, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 13612 vụ
tai nạn giao thông, bao gồm 6638 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 6974 vụ va chạm giao thông, làm 5728 người chết, 3751 người bị thương và 8030 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông trong 8 tháng năm 2016 giảm 6,9% (Số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 1%; số vụ va chạm giao thông giảm 11,9%); số người chết giảm 1,6%; số người bị thương giảm 1,9% và số người bị thương nhẹ giảm 14,7%. Bình quân 1 ngày trong 8 tháng, trên địa bàn cả nước xảy ra 56 vụ tai nạn giao thông, gồm 27 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 29 vụ va chạm giao thông, làm 23 người chết, 15 người bị thương và 33 người bị thương nhẹ.

Thiệt hại do thiên tai[15]

Thiên tai xảy ra trong tháng, đặc biệt là cơn bão số 1, số 2 và số 3 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống dân cư, đặc biệt là tại các tỉnh Đồng bằng sông Hồng, Trung du và miền núi phía Bắc. Theo báo cáo sơ bộ, thiên tai làm 40 người chết, mất tích và 93 người bị thương; gần 600 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và 45,4 nghìn ngôi nhà bị sạt lở, tốc mái; 173,3 nghìn ha lúa, 31,4 nghìn ha hoa màu, 8,2 nghìn ha cây lâm nghiệp, cây ăn quả và 16,8 nghìn ha diện tích nuôi trồng thủy sản bị ngập, hư hỏng; 18,9 nghìn con gia súc, 184,8 nghìn gia cầm và hơn 120 tấn thủy sản các loại bị chết. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong tháng ước tính 7,2 nghìn tỷ đồng. Trong đó riêng bão số 1 và số 2 đã làm 21 người chết, mất tích và 81 người bị thương; gần 500 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và 41,3 nghìn ngôi nhà bị sạt lở, tốc mái; hơn 170 nghìn ha lúa, 29,7 nghìn ha hoa màu và gần 8 nghìn ha cây lâm nghiệp, cây ăn quả bị hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại do cơn bão số 1 và số 2 gây ra khoảng 6,9 nghìn tỷ đồng, trong đó Thái Bình thiệt hại 2438 tỷ đồng; Nam Định thiệt hại 2408 tỷ đồng.

Từ ngày 19/8 đến nay miền Bắc lại tiếp tục bị thiệt hại lớn từ ảnh hưởng của cơn bão số 3. Mưa lũ do hoàn lưu bão đã gây hiện tượng ngập úng và sạt lở đất nghiêm trọng cho các tỉnh miền núi phía Bắc. Theo báo cáo sơ bộ của các địa phương, tính đến ngày 23/8, bão số 3 đã làm 9 người chết, mất tích và 6 người bị thương; hơn 6,3 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, sạt lở, tốc mái; 2,9 nghìn ha lúa, 1,5 nghìn ha hoa màu và gần 250 ha cây lâm nghiệp, cây ăn quả bị ngập, hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại do cơn bão số 3 gây ra khoảng 153 tỷ đồng.

Tính chung 8 tháng năm nay, thiên tai đã làm 90 người chết, mất tích và 223 người bị thương; hơn 1,6 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và 81,8 nghìn ngôi nhà bị sạt lở, tốc mái; 200,3 nghìn ha lúa, 49,7 nghìn ha hoa màu và 18,8 nghìn ha diện tích nuôi trồng thủy sản bị hư hỏng; 36 nghìn con gia súc, 198 nghìn gia cầm và hơn 854 tấn thủy sản các loại bị chết. Tổng giá trị thiệt hại trong 8 tháng năm 2016 ước tính gần 8,7 nghìn tỷ đồng.

e. Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ

Trong tháng 8/2016, cơ quan chức năng đã phát hiện 939 vụ vi phạm quy định về bảo đảm vệ sinh môi trường, trong đó xử lý 672 vụ với tổng số tiền phạt là gần 12,6 tỷ đồng. Tính chung 8 tháng năm nay đã phát hiện 9695 vụ vi phạm quy định về bảo vệ môi trường trên địa bàn cả nước, trong đó xử lý 4525 vụ với tổng số tiền phạt gần 418 tỷ đồng.

Trong tháng, trên địa bàn cả nước xảy ra 240 vụ cháy, nổ, làm 23 người chết và 01 người bị thương, thiệt hại ước tính 86 tỷ đồng. Tính chung 8 tháng năm 2016, trên địa bàn cả nước xảy ra 2268 vụ cháy, nổ, làm 79 người chết và 209 người bị thương, thiệt hại ước tính khoảng 1026 tỷ đồng./.

 

TỔNG CỤC THỐNG KÊ

 



[1] Diện tích chuyển sang phục vụ công trình thủy lợi, khu công nghiệp của Bắc Ninh là 550 ha; Hà Nội 357 ha; Nam Định 241 ha; Hà Nam 176 ha.

[2] Trong đó, diện tích lúa phải gieo cấy lại của Ninh Bình là 7,7 nghìn ha, Nam Định trên 5 nghìn ha, Hà Nam là 1,8 nghìn ha.

[3] Theo báo cáo sơ bộ, cả nước có trên 20 nghìn ha diện tích và trên 300 lồng bè nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại, trong đó: Nam Định 4270 ha; Thái Bình 238 ha 104 lng bè; Lào Cai 230 ha; Yên Bái 113 ha và 44 lồng bè; Sơn La 43 lồng bè.

[4]  Chỉ số sản xuất công nghiệp 8 tháng năm 2015 tăng 9,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Ngành khai khoáng tăng 8,2%; ngành chế biến, chế tạo tăng 10,2%; sản xuất và phân phối điện tăng 11,1%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,1%.

[5]  So với cùng kỳ năm 2015, chỉ số sản xuất ngành khai khoáng 4 tháng giảm 0,5%; 5 tháng giảm 1,4%; 6 tháng giảm 2,6%; 7 tháng giảm 3,6%; 8 tháng giảm 3,8%.

[6] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

[7] So với cùng kỳ năm trước, số doanh nghiệp thành lập mới 8 tháng năm 2015 tăng 29,2%; số vốn đăng ký tăng 29,9%; vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp tăng 1,3%.

[8] Trong 8 tháng ngành kinh doanh bất động sản có 6 dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với tổng số vốn điều chỉnh giảm 23,0 triệu USD.

[9] Trong đó xuất khẩu gạo sang thị trường In-đô-nê-xi-a và Phi-li-pin quý II/2016 giảm 28,8% về lượng (giảm 447 nghìn tấn) và giảm 24% về kim ngạch (giảm 163 triệu USD) so với quý I/2016.  

[10] Xuất khẩu sắn và sản phẩm của sắn 8 tháng năm nay sang thị trường Trung Quốc giảm 21% về lượng và giảm 31,3% về kim ngạch; sang Hàn Quốc giảm 15,4% và giảm 23,4%. 

[11] Nhập siêu từ thị trường Trung Quốc 8 tháng năm 2016 ước tính 19 tỷ USD, giảm 11,9% so với cùng kỳ 2015.

[12] Tháng Bảy ước tính nhập siêu 100 triệu USD.

[13] Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lào Cai, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Yên Bái, Hòa Bình, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Sóc Trăng.

[14] Trong tháng Tám, khách đến từ Tây Ban Nha tăng 166,5% so với tháng trước và tăng 34% so với cùng kỳ năm trước; I-ta-li-a tăng 149,6% và tăng 37,2%; Đức tăng 51,3% và tăng 19%; Pháp tăng 31,2% và tăng 14,2%; Vương quốc Anh tăng 30% và tăng 19,9%.

[15]Chưa kể thiệt hại do tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn nghiêm trọng tại khu vực Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long.


Các tin khác
© Copyright 2012 CỤC THỐNG KÊ TỈNH LÂM ĐỒNG
10 Đường 3 Tháng 4, Phường 3, TP. Đà Lạt