Tình hình kinh tế - xã hội
Tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2023 huyện Đam Rông
Trích từ báo cáo kinh tế - xã hội quý II, 6 tháng đầu năm 2023 của Chi cục Thống kê khu vực Lâm Hà - Đam Rông

1. Đánh giá chung.

Trong quý II và 6 tháng đầu năm 2023, ảnh hưởng của tình hình thời tiết và dịch bệnh đã tác động tiêu cực tới kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện Đam Rông. Tuy nhiên, lãnh đạo các cấp đã chỉ đạo sát sao, kịp thời; các ngành, các xã đã chủ động và có nhiều nỗ lực cố gắng trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ, vì vậy tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn vẫn đạt được những kết quả tích cực, tiến độ thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ cơ bản đảm bảo mục tiêu đề ra.

2. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh một số ngành, lĩnh vực chủ yếu.

2.1. Tài chính, Tín dụng

Tổng thu ngân sách lũy kế 6 tháng đầu năm ước đạt 63.777,1 triệu đồng, đạt tỷ lệ 50,5% kế hoạch; trong đó, huyện thu được 40.420,4 triệu đồng, đạt tỷ lệ 42,5% kế hoạch. Tổng chi ngân sách đạt 293.813 triệu đồng, bằng 59,7% kế hoạch, tăng 37% so với cùng kỳ.

Tổng dư nợ các chương trình tín dụng trên địa bàn huyện đạt 1.834.960 triệu đồng, tăng 7% so với đầu năm. Trong đó, Ngân hàng Chính sách là 446.960 triệu đồng/7.537 hộ vay, tăng 9% so với đầu năm; Ngân hàng NN&PTNT 1.388.000 triệu đồng, tăng 6% so với đầu năm, chủ yếu đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn và cơ sở hạ tầng.

2.2. Đầu tư xây dựng

Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước đến nay đạt 299.437 triệu đồng/130 công trình, dự án. Trong đó: Vốn Trung ương 132.810 triệu đồng/78 công trình thuộc dự án, chương trình mục tiêu quốc gia; vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 121.200/9 công trình, dự án; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 45.427 triệu đồng/43 công trình, dự án.

2.3. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

2.3.1. Sản xuất nông nghiệp

Cây hàng năm: 6 tháng đầu năm 2023, trên địa bàn huyện Đam Rông đã gieo trồng 2.583,9 ha, đạt 56,3% so với KH và tăng 2,5% so với cùng kỳ. Trong đó, Vụ Đông Xuân 1.039,4 ha; cây lúa 780 ha, bằng 100% so với kế hoạch bằng 100% so với cùng kỳ, năng suất đạt 49,05 tạ/ha, tăng 2% so với cùng kỳ, sản lượng 3.825,9 tấn, tăng 2% so với cùng kỳ; cây ngô 88,9 ha, bằng 98,8% so kế hoạch và so với cùng kỳ, năng suất 50 tạ/ha, tăng 4,2% so với cùng kỳ, sản lượng 444,5 tấn, tăng 2,9% so với cùng kỳ; khoai lang 6 ha, bằng 120% kế hoạch và so với cùng kỳ, năng suất 110 tạ/ha, sản lượng 66 tấn, tăng 1,5% so với cùng kỳ; diện tích rau 112 ha, đạt 101,8% so với KH và tăng 4,7% so với cùng kỳ, năng suất 155,3 tạ/ha, tăng 2,4% so với cùng kỳ, sản lượng 1.739,7 tấn, tăng 7,2% so với cùng kỳ; đậu các loại 45 ha, bằng 100% so kế hoạch và cùng kỳ, năng suất 11,5 tạ/ha, sản lượng 51,7 tấn; diện tích hoa 7,5,ha, đạt 93,8% KH, tăng 15,4% so với cùng kỳ.

Gieo trồng vụ Hè Thu và một số cây vụ Mùa 1.544,5 ha, đạt 99,4% so với KH và tăng 3,9% so với cùng kỳ; cụ thể: cây ngô 925 ha, bằng 99,5% so với cùng kỳ; cây tinh bột lấy củ 184,5,ha, tăng 4,8% so với cùng kỳ (khoai lang 40 ha, sắn 122 ha, khoai sáp 22,5 ha); cây rau 210 ha tăng 27,7% so với cùng kỳ; cây công nghiệp ngắn ngày 130 ha, tăng 4 % so với cùng kỳ (mía 15 ha, đậu các loại 115 ha); cây hàng năm khác (cỏ, hoa,…) 95 ha.

Cây lâu năm: Đã tiến hành trồng mới 708 ha, nâng tổng diện tích hiện có lên 17.145,1 ha, bằng 99,2% so với kế hoạch và tăng 5,8% so với cùng kỳ. Diện tích cây ăn quả hiện có 2.056,2 ha, bằng 93% kế hoạch, tăng 13,5% so với cùng kỳ (trồng mới 205 ha); đã trồng mới: 4 ha tiêu, 75,5 ha dâu tằm, 423,5 ha mắc ca; chuyển đổi 5 ha chè. Trong 6 tháng đầu năm, đã thu hoạch sản phẩm một số loại cây ăn quả như: xoài, chuối, dứa, mít, chanh dây, bưởi, chôm chôm, vải, bơ... Nhìn chung, năng suất, sản lượng, chất lượng sản phẩm hầu hết tăng so với cùng kỳ năm trước.

Toàn huyện hiện có 839,7 ha đất sản xuất nông nghiệp CNC[1] (6 tháng đầu năm tăng thêm 30 ha, tăng 8% so với cùng kỳ), trong đó diện tích nhà kính 27,2 ha (6 tháng đầu năm tăng thêm 8,7 ha, tăng 51% so với cùng kỳ), chủ yếu trồng rau, hoa; 35 ha đất sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ; diện tích sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP 123 ha. Có 12 chuỗi, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông sản; có 06 sản phẩm OCOP, gồm 2 sản phẩm 4 sao và 4 sản phẩm 3 sao, trong 6 tháng đầu năm đã hoàn thiện hồ sơ thêm 4 sản phẩm (trà dây, trà trầm và 2 cơ sở mắc ca).

Chăn nuôi: Đàn heo 7.976 con, tăng 47,7% so cùng kỳ; gia cầm 146,7 nghìn con, bằng 80,2%  so với cùng kỳ. Đàn trâu 175 con; đàn bò 5.872 con, tăng 7,1% so với cùng kỳ; đàn dê 258 con, tăng 3,2% so với cùng kỳ.

Tình hình dịnh bệnh: Các đối tượng gây hại chính trên cây trồng ở mức độ nhẹ, không bùng phát thành dịch. Đàn vật nuôi không có dịch bệnh lớn xảy ra.

2.3.2. Lâm nghiệp

Trong 6 tháng đầu năm, trên địa bàn huyện có 198 điểm cháy vệ tinh do người dân đốt dọn nương rẫy, cháy dưới tán thông lớn, không gây thiệt hại tài nguyên rừng. Giao khoán QLBVR 38.673,88 ha cho các hộ nhận khoán và 03 đơn vị tập thể. Thiết kế trồng rừng 89,81 ha, hiện đang tiến hành xử lý thực bì để trồng rừng đúng mùa vụ. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023, phát hiện và lập biên bản 10 vụ vi phạm, giảm 9 vụ so với cùng kỳ năm 2022; diện tích thiệt hại 5,07 ha, khối lượng lâm sản thiệt hại 335,83 m3, thu nộp ngân sách 169,578 triệu đồng.

2.3.3. Thủy sản

Diện tích nuôi thả 175 ha tăng 66,4% so với cùng kỳ. Sản lượng cá Tầm tăng mạnh (tổng diện tích nuôi thả 9,7 ha, sản lượng trên 70 tấn/ha). Ước 6 tháng đầu năm 2023, tổng sản lượng thủy sản đạt 225,6 tấn, tăng 36% so với cùng kỳ.

2.4. Sản xuất công nghiệp

Theo giá so sánh, giá trị sản xuất ước 6 tháng đạt 99.846,2 triệu đồng, bằng 48% kế hoạch, tăng 7,8% so với cùng kỳ; trong đó khu vực cá thể 44.348,9 triệu đồng, bằng 50,7% kế hoạch, tăng 16,1% so với cùng kỳ. GTSX theo giá hiện hành 6 tháng đầu năm đạt 166.228,1 triệu đồng, bằng 53,3% kế hoạch, tăng 11,1% so với cùng kỳ; trong đó khu vực cá thể 77.616,9 triệu đồng, bằng 59,2% kế hoạch, tăng 17,9% so với cùng kỳ.

2.5. Thương mại dịch vụ

Tổng mức bán lẻ hàng hóa 6 tháng đầu năm 2023 trên địa bàn huyện ước đạt 785.296 triệu đồng, tăng 4,3% so với cùng kỳ do đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện làm tăng sức mua trong 6 tháng đầu năm.

Tổng doanh thu ngành vận tải 6 tháng ước đạt 125.618,2 triệu đồng, bằng 55,8% so với kế hoạch, tăng 11,6% so với cùng kỳ; khối lượng vận chuyển hàng hóa ước đạt 404,8 nghìn tấn, bằng 51,8% so với kế hoạch, tăng 2,6% so với cùng kỳ; khối lượng vận tải hành khách ước đạt 253,9 nghìn người, bằng 49,7% so với kế hoạch, tăng 4,6% so với cùng kỳ.

2.6. Các vấn đề xã hội

Y tế: 6 tháng đầu năm, khám bệnh 27.769 lượt người, bằng 115% so với cùng kỳ; tổng số bệnh nhân điều trị 1.909 người; trong đó điều trị nội trú 1.622 bệnh nhân. Giám sát ca bệnh, điều trị và xử lý ổ dịch nhỏ đối với 44 ca mắc thủy đậu, số ca Covid-19 từ ngày 01/01/2023 đến 07/6/2023 là 44 ca, đã điều trị khỏi 40 ca; Công tác tiêm chủng vắc xin phòng Covid-19 đã hoàn thành đợt 58 theo kế hoạch. Kiểm tra 21 cơ sở kinh doanh buôn bán thuốc chữa bệnh cho người và các hoạt động hành nghề y tư nhân, đa số các cơ sở thực hiện tốt các quy định về hành nghề.

Giáo dục: Toàn huyện 36 trường và 1 Trung tâm GDTX & Dạy nghề; có 29 trường đạt chuẩn Quốc gia (bậc MN, TH và THCS có 28/32 trường, 01/4 trường THPT), đạt tỷ lệ 80,5%. Tỷ lệ duy trì sỹ số và lên lớp, học lực, hạnh kiểm các bậc học khá cao. Toàn huyện có 459 học sinh đăng ký dự thi tốt nghiệp THPT tại 03 điểm thi vào ngày 28-29/6/2023; đồng thời, triển khai kế hoạch hoạt động hè, chuẩn bị điều kiện cơ sở vật chất phục vụ năm học mới 2023-2024.

Văn hóa thông tin, Thể dục thể thao: Tổ chức các hoạt động tuyên truyền, văn hóa - văn nghệ, thể dục - thể thao mừng Đảng, mừng Xuân năm 2023 và các nhiệm vụ chính trị của địa phương, các sự kiện trọng đại của đất nước, của tỉnh; Thực hiện 76 chương trình phát thanh tiếng phổ thông; 648 tin, 128 phóng sự, ghi nhanh, gương người tốt, việc tốt, phản ánh; 51 Chương trình phát thanh tiếng K’Ho với 385 tin; 93 phóng sự, ghi nhanh, gương người tốt, việc tốt, phản ánh; 08 chương trình mừng Đảng, mừng Xuân Quý Mão 2023; 25 chuyên mục tuyên truyền Luật Nghĩa vụ Quân sự, công tác bảo vệ rừng, cải cách hành chính, chuyển đổi số; thực hiện 03 trang địa phương Truyền hình phát trên sóng đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Lâm Đồng; đưa được trên 108 tin, bài, phóng sự và 2600 văn bản quy phạm pháp luật lên Website của huyện. Tập huấn các nội dung chuyển đổi số cho 225 thành viên tổ công nghệ số cộng đồng và 27 cán bộ, công chức tham gia bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ trong lĩnh vực thông tin truyền thông năm 2023; xây dựng trang thông tin điện tử và bàn giao quyền quản trị trang thông tin điện tử cho UBND các xã và liên thông lên phần mềm văn phòng điện tử của VNPT Ioffice. Phong trào thể dục thể thao diễn ra rộng khắp.

Xã hội: Trên địa bàn hiện có 1.587 đối tượng BTXH hàng tháng, đã chi trả trợ cấp lũy kế 6 tháng với kinh phí 5.454,86 triệu đồng; hỗ trợ khó khăn đột xuất 3 trường hợp với tổng số tiền là 39,6 triệu đồng. Giải quyết 673 hồ sơ bảo trợ xã hội. Toàn huyện có 164 người có công hưởng trợ cấp hàng tháng, tổng kinh phí chi trả trợ cấp 6 tháng là 2.437,584 triệu đồng; tổ chức đưa người có công đi điều dưỡng tập trung năm 2023 tại TP. Đà Nẵng cho 37 đối tượng theo đúng quy định từ ngày 21 đến ngày 26/5/2023. Đã cấp 40.631 thẻ Bảo hiểm y tế cho các đối tượng thụ hưởng. Mở 08 lớp nghề cho 160 học viên (gồm 02 lớp du lịch cộng đồng; 02 lớp trồng dâu nuôi tằm; 01 lớp kỹ thuật trồng và ghép cây sầu riêng; 01 lớp xây, ốp, lát gạch đá; 01 lớp sửa chữa, lắp đặt thiết bị điện; 01 lớp sửa chữa máy nông nghiệp). Công tác xuất khẩu lao động tiếp tục được quan tâm.

Đến nay, có 4/8 xã đạt 19/19 tiêu chí nông thôn mới, gồm các xã: Đạ Rsal, Rô Men, Phi Liêng, Đạ K’Nàng. Xã Liêng Srônh, Đạ M’Rông, Đạ Tông đạt 18/19 tiêu chí (xã Đạ M’Rông tăng 01 tiêu chí so với cuối năm 2022), xã Đạ Long đạt 16/19 tiêu chí. Đã đạt 3/9 tiêu chí huyện nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025, gồm: tiêu chí 01 (quy hoạch); tiêu chí 3 (thủy lợi và phòng chống thiên tai) và tiêu chí 4 (điện). Tổng nguồn vốn xây dựng nông thôn mới huyện năm 2023 đã phân bổ là 46.996 triệu đồng (vốn trung ương 20.491 triệu đồng, vốn địa phương 26.505 triệu đồng), khối lượng thực hiện và giải ngân đến ngày 31/5/2023 là 23.051 triệu đồng, đạt tỷ lệ 49% nguồn vốn bố trí.

Trong quý II và 6 tháng đầu năm 2023, trên địa bàn huyện xảy ra 01 vụ Lốc xoáy, làm sập 03 căn nhà, gây hư hại 23 căn nhà, diện tích hoa màu bị thiệt hại 0,1 ha; tổng giá trị thiệt hại 785 triệu đồng. Huyện đã kịp thời hỗ trợ các hộ dân khắc phục hậu quả do thiên tai đúng quy định.

An ninh chính trị, trật tự xã hội được bảo đảm, đời sống nhân dân ổn định và ngày càng được cải thiện.



 

 


Các tin khác
© Copyright 2012 CỤC THỐNG KÊ TỈNH LÂM ĐỒNG
10 Đường 3 Tháng 4, Phường 3, TP. Đà Lạt