Tình hình kinh tế - xã hội
Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Lâm Đồng ước năm 2021

 

Tình hình kinh tế - xã hội trong năm 2021 của nước ta nói riêng và thế giới nói chung diễn ra trong bối cảnh tình hình dịch bệnh Covid -19 diễn biến phức tạp, bùng phát mạnh ở các quốc gia và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, kinh tế thế giới có dấu hiệu phục hồi sau nỗ lực nghiên cứu và triển khai tiêm chủng vắc xin phòng dịch Covid-19 ở nhiều nước trên thế giới, giá cả hàng hóa thế giới có xu hướng tăng. Trong nước, dịch Covid-19 bùng phát ở một số tỉnh, thành phố, số ca mắc tăng cao và diễn biến phức tạp đã đặt ra không ít thách thức trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội. Trước những thuận lợi và khó khăn đan xen, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngay từ đầu năm đã chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương thực hiện đồng bộ, linh hoạt, hiệu quả “mục tiêu kép” vừa phòng, chống dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe nhân dân, vừa phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, nỗ lực phấn đấu cao nhất thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2021.

Trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng chậm. Hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhất là các ngành dịch vụ lưu trú, ăn uống, vận tải và du lịch bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh. Đời sống của nhân dân vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa vẫn còn nhiều khó khăn; tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội còn nhiều diễn biến phức tạp. Để thực hiện hiệu quả “mục tiêu kép”, vừa quyết liệt phòng, chống dịch Covid-19, vừa phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an sinh xã hội và đời sống nhân dân. Trong quý IV/2021 triển khai thực hiện Nghị quyết 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ về việc Quy định tạm thời “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19”, các cấp, các ngành địa phương đã quán triệt, nỗ lực, quyết tâm cao và đạt được kết quả quan trọng trong phòng, chống dịch và phục hồi, phát triển kinh tế-xã hội.

1. Tăng trưởng GRDP năm 2021

Năm 2021 là năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ XI nhiệm kỳ 2020 - 2025; Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 – 2025. Năm 2021 là năm  kinh tế - xã hội của nước ta nói chung và của Lâm Đồng nói riêng diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới dần phục hồi, một số quốc gia đẩy mạnh việc tiêm vắc-xin phòng dịch Covid-19 và đã đạt được những kết quả ban đầu, các nước phát triển dần mở cửa trở lại.

Tuy nhiên, đến nay dịch Covid - 19 vẫn diễn biến phức tạp nhưng với sự nỗ lực của các cấp, các ngành, các địa phương quán triệt, tập trung tổ chức triển khai bằng nhiều biện pháp, giải pháp tích cực, các chương trình mục tiêu đã có bước cải thiện đáng kể, nền kinh tế đang hòa nhập sâu rộng trên thị trường quốc tế và khu vực; kết cấu hạ tầng, năng lực và trình độ sản xuất của nhiều ngành kinh tế đã tăng lên. Sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp, toàn thể nhân dân đã chung sức, đồng lòng, nỗ lực tập trung thực hiện nhiều giải pháp để vừa phòng chống dịch bệnh hiệu quả, vừa đảm bảo phát triển sản xuất hợp lý. Vì vậy kinh tế - xã hội năm 2021 của Lâm Đồng có những kết quả tương đối khả quan.

Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) năm 2021 theo giá so sánh 2010 đạt 50.106,7 tỷ đồng, tăng 2,58% so với cùng kỳ, do ảnh hưởng nghiêm trọng của dịch Covid-19 tới mọi lĩnh vực của nền kinh tế, nhiều địa phương có kinh tế trọng điểm phải thực hiện giãn cách xã hội kéo dài để phòng chống dịch bệnh. Trong mức tăng chung của toàn tỉnh, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt 18.996,2 tỷ đồng, tăng 4,8%, đóng góp 1,78 điểm phần trăm trong mức tăng chung của GRDP. Khu vực công nghiệp - xây dựng đạt 9.285,5 tỷ đồng, tăng 6,28%, đóng góp 1,12 điểm phần trăm trong mức tăng chung của GRDP; trong đó ngành công nghiệp đạt 5.102,3 tỷ đồng, chiếm 54,95% trong khu vực này, tăng 8,41% so với cùng kỳ, đóng góp 0,81 điểm phần trăm trong mức tăng chung của GRDP. Khu vực dịch vụ đạt 19.053,9 tỷ đồng, giảm 1,84% so với cùng kỳ, làm giảm 0,73 điểm phần trăm trong mức tăng chung của GRDP, do dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động thương mại và dịch vụ, tăng trưởng âm của một số ngành chiếm tỷ trọng lớn trong khu vực này đã làm giảm mức tăng chung của khu vực dịch vụ và nền kinh tế của toàn tỉnh. Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm đạt 2.771,1 tỷ đồng, tăng 7,71% so với cùng kỳ, với mức đóng góp 0,41 điểm phần trăm trong mức tăng GRDP.

Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) năm 2021 theo giá hiện hành đạt 87.157,6 tỷ đồng, tăng 5,59% so với cùng kỳ. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản đạt 33.835,9 tỷ đồng, tăng 7,63%; khu vực công nghiệp - xây dựng đạt 16.496,6 tỷ đồng, tăng 10,04%; khu vực dịch vụ đạt 32.016,9 tỷ đồng, tăng 0,74%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm đạt 4.808,2 tỷ đồng, tăng 11,01% so với cùng kỳ. GRDP bình quân đầu người đạt 66 triệu đồng/người/năm. Cơ cấu các ngành kinh tế năm 2021: khu vực I là 41,09%, khu vực II là 20,03% và khu vực III là 38,88%.

1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Tình hình sản xuất nông nghiệp trong năm 2021 trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng thời tiết tương đối thuận lợi cho việc gieo trồng và phát triển đối với cây trồng. Tuy nhiên tình trạng giá cả vật tư nông nghiệp leo thang đã tác động trực tiếp đến chi phí sản xuất và lợi nhuận của người dân, nhà nông vốn đã khó khăn lại khó khăn thêm, nhất là trong bối cảnh chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi dịch Covid-19 trong sản xuất. Sản xuất lâm nghiệp có mức tăng trưởng ổn định. Ngành thủy sản nuôi trồng chủ yếu là nuôi thuỷ sản nước ngọt với quy mô nhỏ, phát triển trên diện tích mặt nước tận dụng.

1.1. Nông nghiệp

Tổng diện tích gieo trồng ước đạt 395.531,9 ha, tăng 1,62% (+6.305 ha) so với cùng kỳ. Trong đó, diện tích cây hàng năm 132.732,9 ha, chiếm 33,56%, tăng 1,41%. Theo mùa vụ, vụ Đông xuân 40.396,3 ha, chiếm 30,43%, tăng 2,58%; vụ Hè thu 43.656,31 ha, chiếm 32,89%, tăng 1,68%; vụ mùa sơ bộ 48.680,23 ha, chiếm 36,68%, tăng 0,22%.

Tổng sản lượng lương thực có hạt đạt 191.621,1 tấn, tăng 1,76% so với cùng kỳ.

Cây lúa gieo trồng 27.550 ha, giảm 0,23% (-62,2 ha) so với cùng kỳ, trong đó: lúa Đông xuân thực hiện 3.737 ha, tăng 1,11%; lúa Hè thu ước 5.783,7 ha, giảm 1,34%. Năng suất bình quân chung của tỉnh đạt 54,37 tạ/ha, tăng 3,86% (+2,02 tạ/ha); sản lượng đạt 149.785,7 tấn, tăng 3,63% (+5.245,2 tấn) so với cùng kỳ.

Kết quả sản xuất hoa màu và một số cây hàng năm khác: Sản lượng ngô đạt 41.835,4 tấn, giảm 4,42% (-1.932,6 tấn) so với cùng kỳ do diện tích giảm 457,2 ha; khoai lang đạt 55.614,3 tấn, tăng 3.419 tấn (diện tích giảm 29,5 ha); sắn/mỳ đạt 6.837 tấn; khoai môn; khoai tây  54.523,2 tấn; mía đạt 16.989,3 tấn, giảm 1.202 tấn; đậu tương đạt 254,2 tấn, tăng 20,5 tấn; lạc đạt 995,1 tấn, tăng 95,3 tấn; đậu các loại đạt 1.993,4 tấn, giảm 11,4 tấn; rau các loại đạt 2.380,7 ngàn tấn, tăng 65,9 ngàn tấn (diện tích tăng 1.073,4 ha); Atiso đạt 7.909,2 tấn; hoa các loại đạt 2.999,1 triệu bông/cành, giảm 90,4 triệu bông/cành (diện tích tăng 65,3 ha).

Cây lâu năm: Diện tích hiện có 262.799 ha, tăng 1,73% (+4.460,2 ha) so với cùng kỳ. Trong đó, cây cà phê là cây trồng chủ lực trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, với diện tích hiện có 175.460,7 ha, tăng 0,16% (+404,9 ha). Tiếp đến là cây cây ăn quả với diện tích hiện có 34.416,5 ha, tăng 17,76% (+5.189,9 ha); cây điều diện tích hiện có 20.446,3 ha, giảm 5,56% (-1.202,7 ha); cây chè với diện tích 10.613,8 ha, giảm 2,15% (-233 ha); cây cao su đạt 9.407,3 ha, tăng 0,54% (+50,8 ha) so với cùng kỳ.

Sản lượng thu hoạch một số cây lâu năm trong năm 2021: Sản lượng cà phê thu hoạch ước đạt 552.266,7 tấn, tăng 2,78% (+14.921,5 tấn); chè sản lượng thu hoạch ước đạt 130.099,6 tấn, giảm 1,35% (-1.786,2 tấn); điều thu hoạch ước đạt đạt 16.620,58 tấn, giảm 1,98% (-335,1 tấn); sản lượng tiêu thu hoạch đạt 7.192,6 tấn, tăng 0,23% (+16,2 tấn); cây cao su sản lượng ước đạt 9.348,6, tăng 4,03% so với cùng kỳ.

Chương trình Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp thông minh[1]: Diện tích ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao 63.378 ha (tăng 2.880 ha so với cùng kỳ), gồm 25.910,2 ha rau; 2.062,5 ha hoa; 4.934 ha chè; cà phê 22.031 ha; lúa chất lượng cao 4.425 ha; cây ăn quả 3.226 ha; dược liệu 134 ha; nấm 5,2 ha; vườn ươm 381,1 ha.

Về phòng chống dịch hại cây trồng: Năm 2021, dịch hại trên các loại cây trồng cơ bản được kiểm soát, hầu hết gây hại nhẹ và ít biến động so với cùng kỳ. Trên cây ngô sâu keo mùa thu gây hại 210 ha; cây cà phê chè bọ xít muỗi gây hại nhẹ 2.168,9 ha; cây điều bệnh thán thư gây hại 5.278,7 ha, bọ xít muỗi gây hại 4.350,7 ha; cây cà chua bệnh xoăn lá virus gây hại 302,5 ha; cây hoa cúc bệnh virus sọc thân gây hại 14 ha.

* Tình hình chăn nuôi

Tổng đàn vật nuôi trong năm 2021: Tổng đàn trâu hiện có ước đạt 13.121 con, giảm 0,33% (-44 con); tổng đàn bò thời điểm hiện tại ước đạt 99.050 con[2], tăng 2,5% (+2.416 con) so với cùng kỳ. Tổng số lợn là 396.920 con, tăng 8,99% (+32.750 con); tổng số gia cầm hiện có 12.081,4 nghìn con, tăng 5,74% (+655 nghìn con) so với cùng kỳ. Trong đó: gà chiếm 46,27% con tổng đàn gia cầm với 5.590 nghìn con, tăng 3,67% (+198 nghìn con).

Tổng sản lượng chăn nuôi trong năm 2021: Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng ước đạt 885 tấn, giảm 1,32% (-12 tấn); sản lượng thịt bò hơi xuất đạt 5.872 tấn, tăng 2,61% (+149 tấn); sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng đạt 67.267  tấn, tăng 4,53% (+2.291 tấn); sản lượng thịt gia cầm hơi đạt 23.892,2 tấn, tăng 6,3% (+1.415,4 tấn), trong đó: Sản lượng thịt gà hơi đạt 19.626 tấn, tăng 6,63% (+1.220 tấn) so với cùng kỳ.

Sản lượng, sản phẩm không qua giết mổ xuất chuồng năm 2021: Sản lượng sữa bò đạt 106.248,2 tấn, tăng 9,8% (+9.483 tấn); sản lượng trứng gia cầm các loại ước đạt 1.754.854,5 ngàn quả, tăng 7,95% (+129.226,4 nghìn quả) so với cùng kỳ[3]. Sản lượng kén tằm đạt 14.606 tấn, tăng 7,5% (+1.019 tấn) so với cùng kỳ.

6.2. Lâm nghiệp

Một số chỉ tiêu lâm nghiệp chủ yếu trong năm 2021[4]:

Trồng mới rừng tập trung: Toàn tỉnh đạt 1.312 ha, giảm 5,49% (-76,3 ha) so với cùng kỳ, chủ yếu là rừng sản xuất; rừng trồng được chăm sóc đạt 13.570 ha, tăng 2,21% (+293,9 ha); tổng diện tích giao khoán quản lý bảo vệ rừng 452.756,6 ha.

Khai thác lâm sản: Gỗ tròn các loại khai thác ở các loại hình kinh tế ước đạt 51.802 m3, tăng 0,61% (+315,5 m3) so với cùng kỳ, tăng do khai thác trắng rừng trồng; củi thước đạt 81.926 ster, bằng 98,5% so với cùng kỳ.

Tình hình vi phạm lâm luật: Trong 2021, lực lượng Kiểm Lâm và các đơn vị chức năng trên địa bàn tỉnh đã phát hiện lập biên bản 490 vụ, giảm 27,94% (-190 vụ) so với cùng kỳ. Trong đó: Số vụ phá rừng 229 vụ, giảm 9,13% (-23 vụ); diện tích rừng bị phá 36,05 ha, giảm 15,06% (-6,39 ha) so với cùng kỳ. Tổng số vụ vi phạm đã xử lý 449 vụ, trong đó: xử lý hành chính 413 vụ, xử lý hình sự 36 vụ. Lâm sản tịch thu qua xử lý vi phạm: tịch thu 937,8 m3 gỗ các loại. Thu nộp ngân sách 6,12 tỷ đồng.

Công tác phòng cháy, chữa cháy rừng: Tính đến ngày 10/12/2021 trên địa bàn toàn tỉnh xảy ra 05 vụ cháy/7,16 ha (không gây thiệt hại đến tài nguyên rừng). Trong đó: 02 vụ cháy rừng/1,83 ha loại rừng hỗn giao-lồ ô; 03 vụ cháy thảm cỏ cây bụi dưới tán rừng/5,33 ha.

Công tác cho thuê rừng, đất lâm nghiệp: Đến nay tổng số dự án đã thu hồi 208 dự án/30.469 ha gồm 172 dự án thu hồi toàn bộ/26.226 ha và 36 dự án thu hồi một phần/4.243 ha do không triển khai thực hiện dự án theo đúng quy định một số doanh nghiệp tự nguyện trả lại dự án…

6.3. Thủy sản

Lâm Đồng là tỉnh miền núi, hoạt động sản xuất chủ yếu là nuôi trồng và khai thác thủy sản nước ngọt, hầu hết hộ tận dụng mặt nước phục vụ tưới trong sản xuất nông nghiệp để nuôi trồng nhằm cải thiện, phục vụ đời sống.

Diện tích nuôi trồng thủy sản ước năm 2021, trên địa bàn toàn tỉnh đạt 2.290,6 ha, giảm 6,33% (-154,8 ha) so với cùng kỳ.

Nuôi trồng thủy sản lồng bè: Toàn tỉnh hiện có 30 cơ sở nuôi thủy sản lồng, bè trên sông, hồ. Số lồng bè nuôi cá tầm 205 cái, chiếm 50,12%, thể tích lồng nuôi 21.960 m3, chiếm 50,86%; cá diêu hồng 9.275 m3, chiếm 21,48%; cá rô phi 5.570 m3, chiếm 12,9%; cá trắm 3.666 m3, chiếm 8,49%; cá chép 2.190 m3, chiếm 5,07%.

Nuôi trồng thủy sản bể bồn: Toàn tỉnh có 13 cơ sở nuôi thủy sản bể bồn, trong đó 07 doanh nghiệp và 06 hộ cá thể. Thể tích nuôi 116.341 m3, chủ yếu là nuôi cá tầm.

Sản xuất giống thủy sản: Tổng diện tích/thể tích ươm, nuôi thủy sản nội địa 5.000 m2. Trong đó, hộ gia đình 2.700 m2, doanh nghiệp ngoài nhà nước 500 m2, HTX 1.800 m2; thể tích nuôi 2.830 m3.

Sản lượng thủy sản nuôi trồng và khai thác: Ước năm 2021 đạt 8.950,5 tấn, tăng 4,49% (+384,2 tấn) so với cùng kỳ. Trong đó, sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 8.686,5 tấn, chiếm 97,05%, tăng 4,79% (+396,7 tấn) so với cùng kỳ.

Sản xuất giống thủy sản: Ước đạt 28,3 triệu con, chủ yếu là cá giống các loại, tăng 4,81% (+1,3 triệu con) so với cùng kỳ.

2. Sản xuất công nghiệp

Đối với lĩnh vực sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng trong năm 2021 các doanh nghiệp, các đơn vị đã tăng cường sản xuất. Tuy nhiên, dịch Covid-19 ảnh hưởng lớn đến tình hình sản xuất công nghiệp nên mức độ tăng, giảm khác nhau giữa các ngành công nghiệp. Bên cạnh đó thị trường tiêu thụ thu hẹp, hợp đồng mới và xuất khẩu rất ít, chi phí sản xuất tăng. Nhìn chung chỉ số sản xuất chung của ngành công nghiệp Lâm Đồng trong năm 2021 tăng khá so với cùng kỳ, tăng chủ yếu là ngành sản xuất, phân phối điện.

Dự ước chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp trên địa bàn Lâm Đồng năm 2021 tăng 10,49% so với cùng kỳ. Hầu hết chỉ số sản xuất các ngành công nghiệp đều tăng như: ngành khai khoáng; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; ngành sản xuất, phân phối điện tăng; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải.

Chỉ số sản xuất ngành khai khoáng tăng 7,56% so với cùng kỳ, trong đó: ngành khai khoáng khác như khai thác cát, sỏi cao lanh… tăng 8,18%.

Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,75% so với cùng kỳ; chủ yếu tăng ở các ngành: ngành sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 21,27%; ngành dệt tăng 18,88%; sản xuất đồ uống tăng 13,88%; ngành sản xuất máy móc, thiết bị chưa phân vào đâu tăng 11,47%; ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại tăng 10,95%; ngành sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 6,47%; ngành sản xuất kim loại tăng 4,62%; ngành sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 4,29%; ngành sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 2,65%.

Một số ngành có chỉ số sản xuất ngành giảm như ngành sản xuất thuốc hóa dược giảm 31,56%; ngành in, sao chép bản ghi các loại giảm 11,52%; ngành sản xuất giường, tủ, bàn ghế giảm 9,62%; ngành chế biến gỗ giảm 8,67%; ngành sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 7,61%; ngành sản xuất trang phục giảm 6,58%; ngành sản xuất chế biến thực phẩm giảm 6,48% so với cùng kỳ.

Chỉ số sản xuất ngành Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng hơi nước và điều hòa không khí tăng 20,83% so với cùng kỳ do năm 2020 một số nhà máy tạm ngưng hoạt động để bảo hành, bảo dưỡng; trong năm 2021 các nhà máy thủy điện trên địa bàn duy trì công suất chạy máy phát điện cung cấp cho hệ thống điện quốc gia đồng thời đảm bảo yêu cầu an toàn cho hệ thống hồ, đập thủy điện, sản lượng điện sản xuất theo kế hoạch điều động của Trung tâm điều động điện quốc gia.

Chỉ số sản xuất ngành Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải: tăng 0,89% so với cùng kỳ; trong đó: khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 0,68% và hoạt động thu gom rác thải tăng 1,7% so với cùng kỳ.

Sản phẩm công nghiệp chủ yếu trên địa bàn:

Sản phẩm ngành công nghiệp khai khoáng: đá xây dựng đạt 2.451,7 ngàn m3, tăng 8,52%; cao lanh đạt 209,8 ngàn tấn, tăng 7,58%.

Một số sản phẩm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo như: sản phẩm sợi xe từ lông động vật (sợi len lông cừu) đạt 1.517 tấn, tăng 42,21%; bia đạt 104,6 triệu lít, tăng 20,56%; bê tông trộn sẵn đạt 495,6 ngàn m3, tăng 14,56%; rau ướp lạnh ước đạt 9.899 tấn, tăng 10,25%; hạt điều khô đạt 1.356 tấn, tăng 8,98%; Oxit nhôm (Alumin) đạt 725,4 ngàn tấn, tăng 4,62%; sản phẩm phân bón NPK đạt 116,2 ngàn tấn, tăng 2,69% so với cùng kỳ.

Sản phẩm điện sản xuất của 33 nhà máy trên đại bàn tỉnh ước đạt 8.090 triệu kwh, tăng 20,23%; sản phẩm nước uống được đạt 32,8 triệu m3, tăng 0,68% so với cùng kỳ.

* Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Đến cuối năm 2021 chỉ số tiêu thụ của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,34% so với cùng kỳ, tăng chủ yếu ở các ngành: ngành sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu tăng 135,52%; ngành dệt tăng 25,28%; ngành sản xuất đồ uống tăng 16,51%; ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại tăng 14,97%; ngành sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 9,61%; %; ngành in, sao chép bản ghi các loại tăng 9,09%; ngành sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 5,87%. Nhìn chung chỉ số tiêu thụ của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo năm 2021 tăng so với cùng kỳ là một tín hiệu tốt trong thời gian nền kinh tế nói chung và sản xuất công nghiệp nói riêng đang chịu ảnh hưởng dịch Covid -19.

* Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Đến cuối năm 2021 giảm 15,55% so với cùng kỳ, chủ yếu ở các nhóm ngành: Sản xuất kim loại giảm 34,79%; chế biến thực phẩm giảm 30%, ngành dệt giảm 23,22%. Các ngành khác có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng kỳ như sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 123,03%. sản xuất chế biến gỗ tăng 82,33%.

* Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp năm 2021: Năm 2021 chỉ số lao động của doanh nghiệp công nghiệp giảm 3,86% so với cùng kỳ. Chia theo ngành công nghiệp: Ngành khai khoáng giảm 1,13%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 3,93%; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 5,04% và ngành cung cấp nước, xử lý rác thải giảm 1,79% so với cùng kỳ. Chia theo loại hình: doanh nghiệp nhà nước giảm 3,01%; doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm 3,57% và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 6,81%.

Xu hướng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý IV năm 2021.

Nhận định xu hướng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng trong quý IV năm 2021 so quý III năm 2021 không khả quan khi có chỉ số cân bằng (CSCB) -21,54%; trong đó: doanh nghiệp nhà nước có CSCB -28,57%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh có CSCB -18,52%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có CSCB -50%. Chỉ số cân bằng chia theo ngành kinh tế: ngành sản xuất chế biến thực phẩm -33,33%; ngành dệt -12,5%; ngành chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ -22,22%; ngành in, sao chép bản ghi các loại -100%; ngành sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất -100%; ngành sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu -50%; ngành sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic -100%; ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác -60%; ngành sản xuất giường, tủ, bàn, ghế -33,33%. Riêng một số ngành có CSCB tăng như: ngành sản xuất đồ uống +33,33%; ngành sản xuất kim loại +100%; ngành sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn +14,29%; ngành sản xuất kim loại và ngành sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu +100%.

Nhận định xu hướng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng trong quý I năm 2022 so quý IV năm 2021 khả quan hơn quý IV/2021 so với quý III/2021, có chỉ số cân bằng (CSCB) +4,62%; trong đó: doanh nghiệp nhà nước có CSCB bằng nhau trong dự báo xu hướng sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp ngoài quốc doanh có CSCB +1,85%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có CSCB +50%. Chỉ số cân bằng chia theo ngành kinh tế: ngành dệt +12,5%; ngành sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy +100%; ngành in, sao chép bản ghi các loại +100%; ngành sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu +50%; ngành sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic +100%; ngành sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn +28,57%; ngành sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu +100%.

Các ngành có CSCB giảm: ngành sản xuất chế biến thực phẩm -13,33%; ngành sản xuất đồ uống -33,33%; ngành chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ -11,11%; ngành sản xuất giường, tủ, bàn, ghế -33,33%.

Trong quý tiếp theo (quý I năm 2022 so với quý trước), các doanh nghiệp nhận định môi trường kinh doanh tốt lên. Với nhận định đó nền kinh tế dần ổn định, thị trường trong nước và quốc tế có nhiều thay đổi theo hướng dần giảm bớt khó khăn, đồng nghĩa với thuận lợi ngày càng tăng giúp các doanh nghiệp lạc quan hơn, đầu tư hơn và kỳ vọng sản xuất kinh doanh hiệu quả hơn trong thời gian tới.

3. Tình hình đăng ký doanh nghiệp và kinh tế tập thể [5]

Trong tháng 12/2021, có 77 doanh nghiệp thành lập mới, với số vốn đăng ký 1.125,6 tỷ đồng, so với cùng kỳ tăng 5,5% về số doanh nghiệp và giảm 49,5% về vốn đăng ký; có 25 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tăng 92,3%; 14 doanh nghiệp giải thể và có 13 doanh nghiệp hoạt động trở lại.

Năm 2021, tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới 1.203 doanh nghiệp, với số vốn đăng ký 16.583,1 tỷ đồng, so với cùng kỳ giảm 8% về số doanh nghiệp và tăng 26,3% về vốn đăng ký. Dự kiến đến 31/12/2021, toàn tỉnh có 11.200 doanh nghiệp; trong đó, có 7.900 doanh nghiệp đang hoạt động và kê khai thuế.

Kinh tế tập thể tiếp tục phát triển, số lượng hợp tác xã thành lập mới, thành viên hợp tác xã tiếp tục tăng. Dự kiến năm 2021, có 35 hợp tác xã thành lập mới, nâng tổng số HTX đến 31/12/2021 là 460 hợp tác xã với trên 59.209 thành viên và  có 04 Liên hiệp hợp tác xã. 

4. Đầu tư

Năm 2021, tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Lâm Đồng bị ảnh hưởng nặng nề là do dịch Covid-19 bùng phát lần thứ 4 năm 2021 tác động xấu đến tất cả các ngành kinh tế xã hội. Đến tháng 10 năm 2021 thực hiện Nghị quyét 128/NĐ-CP ngày 11/10/2021 của Chính Phủ về quy định tạm thời thích ứng an toàn linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19, nhiều tỉnh, thành đã bỏ các chốt kiểm soát, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân thông thương trong trạng thái bình thường mới. Tình hình giải ngân vốn đầu tư được đẩy nhanh tiến độ. Chiến lược chuyển từ “Zero COVID” sang “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19” được áp dụng trên cả nước. UBND tỉnh Lâm Đồng đã chỉ đạo hoạt động đầu tư xây dựng trên đia bàn phải đảm bảo tiến độ công trình, nhất là công trình vốn đầu tư công; hoàn thành các dự án đã và đang thực hiện cũng như các dự án đã được cấp phép xây dựng mới trong năm 2021, đặc biệt là chú trọng và đẩy mạnh công tác giải ngân vốn đầu tư để đảm bảo thực hiện mục tiêu kép vừa phòng chống dịch vừa phục hồi và phát triển kinh tế.

Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý IV năm 2021 ước đạt 9.162,7 tỷ đồng, tăng 9,44% so với cùng kỳ; trong đó: vốn Nhà nước tăng 24,98%; vốn đầu tư ngoài nhà nước tăng 4,45%; riêng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm 49,76% so với cùng kỳ. Dự ước vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội năm 2021 đạt 27.868,2 tỷ đồng, tăng 7,96% so với cùng kỳ; trong đó: nguồn vốn Nhà nước trên địa bàn ước đạt 6.806,7 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 30,52% trong tổng vốn, tăng 14,15% so với cùng kỳ (vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn Ngân sách 85% kế hoạch vốn năm 2021, do thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh đẩy nhanh tiến độ đầu tư, nghiệm thu, thanh toán giải ngân cho các công trình, để hoàn thành kế hoạch giải ngân vốn đầu tư công năm 2021). Nguồn vốn đầu tư thực hiện thuộc khu vực ngoài nhà nước đạt 20.913,9 tỷ đồng, tăng 7,37% so với cùng kỳ và chiếm 69,06% trong tổng vốn, chủ yếu đầu tư của khu vực hộ dân cư trong xây dựng, sửa chữa nhà ở cũng như đầu tư cho sản xuất kinh doanh như đầu tư tái canh cây cà phê, sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, đầu tư mở rộng quy mô trong ngành thương mại, vận tải cá thể… Nguồn vốn đầu tư thực hiện thuộc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 147,6 tỷ đồng, giảm 60,36% so với cùng kỳ, chiếm 0,42% trong tổng vốn, chủ yếu thực hiện các khoản mục đầu tư mua sắm máy móc thiết bị không qua XDCB, bổ sung vốn lưu động và sửa chữa nâng cấp tài sản cố định... của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Đối với nguồn vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý tháng 12/2021 ước đạt 859 tỷ đồng, tăng 50,29% so với cùng kỳ; trong đó, vốn cân đối ngân sách tỉnh đạt 254,4 tỷ đồng, vốn Trung ương hỗ trợ theo mục tiêu đạt gần 223 tỷ đồng, vốn từ xổ số kiến thiết đạt 229,3 tỷ đồng, nguồn vốn khác đạt 28,4 tỷ đồng, nguồn vốn thuộc ngân sách nhà nước cấp huyện đạt 43,4 tỷ đồng, giảm 34,91% so với cùng kỳ. Dự ước nguồn vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý năm 2021 ước đạt 4.806,2 tỷ đồng, tăng 35,96% so với cùng kỳ, trong đó, vốn cân đối ngân sách tỉnh đạt 1.724,2 tỷ đồng, vốn Trung ương hỗ trợ theo mục tiêu đạt 1.251,3 tỷ đồng, vốn từ xổ số kiến thiết đạt 1.801,3 tỷ đồng, nguồn vốn khác đạt 218,5 tỷ đồng, nguồn vốn thuộc ngân sách nhà nước cấp huyện đạt 312,6 tỷ đồng, giảm 11,34% so với cùng kỳ.

5. Hoạt động tài chính, tín dụng

5.1. Hoạt động tài chính[6]

Năm 2021 các ngành chức năng đã tuyên truyền các chính sách thuế mới, tổ chức hội nghị đối thoại, giải đáp vướng mắc cho người nộp thuế bằng phương thức trực tuyến, đẩy mạnh hỗ trợ người nộp thuế qua điện thoại, dịch vụ thuế điện tử. Nhằm tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân bị ảnh hưởng dịch bệnh COVID-19[7]; tiếp tục tuyên truyền, hướng dẫn kịp thời để người nộp thuế được hưởng chính sách nhà nước nhằm ổn định sản xuất, kinh doanh, phục hồi kinh tế và tạo đà phát triển trong thời gian tới[8].

Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 31/12/2021 ước đạt 10.749,6 tỷ đồng, bằng 115,59% dự toán năm và tăng 14,09% so với cùng kỳ, trong đó thu nội địa đạt 10.405,1 tỷ đồng, tăng 13,25%; thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu 344,4 tỷ đồng, tăng 45,67%.

Một số nguồn thu chủ yếu trong năm 2021: Thu từ khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh 2.585,3 tỷ đồng, đạt 106,13% dự toán và tăng 75,44% so với cùng kỳ; thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước Trung ương ước thực hiện 1.000,7 tỷ đồng, đạt 130,13% và tăng 31,75%; thu tiền sử dụng đất 1.788,5 tỷ đồng, đạt 119,24% và tăng 11,4%; thu từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 92,4 tỷ đồng, đạt 124,07% và giảm 12,18%; thuế thu nhập cá nhân 1.190,1 tỷ đồng, đạt 140,34% và tăng 33,7% so với cùng kỳ.

Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 31/12/2021 ước đạt 15.049,3 tỷ đồng, đạt 97,86% dự toán và tăng 2,2% so với cùng kỳ. Trong đó, chi đầu tư phát triển 2.810,8 tỷ đồng đạt 71,74% dự toán và tăng 12,25%; chi thường xuyên 7.700 tỷ đồng, đạt 86,66% dự toán và giảm 5,16% so với cùng kỳ.

5.2. Hoạt động tín dụng[9]

Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng trên địa bàn tiếp tục triển khai đổi mới các cơ chế tín dụng cho phát triển nông nghiệp, nông thôn; nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng cho nông dân và doanh nghiệp. Ưu tiên thực hiện các chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, tạo điều kiện cho đơn vị, cá nhân tiếp cận với nguồn vốn vay ưu đãi; khuyến khích, hỗ trợ các đề án khởi nghiệp...

Tình hình thực hiện lãi suất: Lãi suất huy động bằng VND phổ biến ở mức 0,2%/năm đối với tiền gửi kỳ hạn dưới 1 tháng; 3,59-3,68%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 4,89%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn từ 12 tháng trở lên ở mức 6,12%/năm.

Mặt bằng lãi suất cho vay bằng VND của tổ chức tín dụng phổ biến ở mức 8,12%/năm đối với ngắn hạn; 10,82%/năm đối với trung và dài hạn. Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND ở mức 4,5 – 5,5%/năm đối với một số ngành lĩnh vực ưu tiên (nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao).

Hoạt động huy động vốn: Ước tính đến 31/12/2021, tổng nguồn vốn huy động của các TCTD trên địa bàn tỉnh ước tính đạt 77.000 tỷ đồng, tăng 15,65% so với thời điểm kết thúc năm 2020. Trong đó, tiền gửi VNĐ đạt 75.100 tỷ đồng, tăng 15,31% so với thời điểm kết thúc năm 2020; tiền gửi ngoại tệ đạt 700 tỷ đồng, giảm 8,62%. Theo cơ cấu tiền gửi, tiền gửi tiết kiệm đạt 52.600 nghìn tỷ đồng, tăng 11,44%; tiền gửi thanh toán đạt 23.200 tỷ đồng, tăng 24,12%.

 

 

 

Hoạt động tín dụng: Ước tính đến 31/12/2021, tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn tỉnh đạt 137.000 tỷ đồng, tăng 18,52% so với thời điểm kết thúc năm 2020. Trong đó dư nợ cho vay theo kỳ hạn ngắn hạn đạt 101.400 tỷ đồng, tăng 25,6% so với thời điểm kết thúc năm 2020; dư nợ trung hạn và dài hạn đạt 35.600 nghìn tỷ đồng, tăng 2,11% so với thời điểm kết thúc năm 2020.

Các tổ chức tín dụng tích cực nâng cao hiệu quả công tác quản lý rủi ro thông qua việc xây dựng hệ thống cảnh báo sớm nhằm phát hiện các khoản vay có vấn đề trước khi phát sinh tình trạng nợ xấu. Tính đến hết tháng 12, tỷ lệ nợ xấu của các tổ chức tín dụng chiếm 0,33% trong tổng dư nợ và giảm 26,35% so với thời điểm kết thúc năm 2020.

Cho vay hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng dịch Covid – 19: Có 1.257 khách hàng với dư nợ 21.168 tỷ đồng. Trong đó, được cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ với dư nợ 1.293 tỷ đồng; 11.564 khách hàng được cho vay mới với doanh số cho vay là 17.970 tỷ đồng.

6. Thương mại, dịch vụ 

6.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ

Năm 2021, tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, kéo dài đã tác động xấu đến tất cả các hoạt động kinh tế - xã hội trên cả nước. Trong Quý IV/2021 thực hiện Nghị quyết 128/NĐ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng đã trở lại hoạt động trong trạng thái bình thường mới nhằm thực hiện mục tiêu kép trong công tác phòng, chống dịch bệnh và phát triển kinh tế hiệu quả, an toàn. Đánh giá xu hướng sản xuất kinh doanh trên địa bàn tháng 12/2021 tăng cao so với tháng trước.

Dự ước tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tháng 12/2021 đạt 6.735,6 tỷ đồng, tăng 7,86% so với cùng kỳ (nếu loại trừ yếu tố giá tăng 5,47%). Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ quý IV năm 2021 ước đạt 17.072 tỷ đồng, giảm 3,49% so với cùng kỳ. Dự ước tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ cả năm 2021 đạt 56.062,4 tỷ đồng, giảm 2,93 % so với cùng kỳ (nếu loại trừ yếu tố giá giảm 4,8%).

Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 12/2021 ước đạt 5.544,2 tỷ đồng, tăng 19,22% so với cùng kỳ; trong đó có 07 nhóm hàng hóa doanh thu tăng từ 9,3% đến 110,94% (nhóm xăng, dầu các loại đạt 584,9 tỷ đồng, tăng cao nhất với 110,94%) và 05 nhóm giảm từ 11,25% đến 69,31% (nhóm ô tô các loại đạt 42,9 tỷ đồng, giảm mạnh nhất với 69,31%). Dự ước tổng mức bán lẻ hàng hóa quý IV năm 2021 đạt 14.302,1 tỷ đồng, tăng 12,95% so với cùng kỳ; một số nhóm hàng chiếm tỷ trọng lớn như: nhóm lương thực, thực phẩm chiếm 47,04% trong tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 6.728,1 tỷ đồng, tăng 23,06%; xăng, dầu các loại đạt 1.450,1 tỷ đồng, tăng 88,14%; gỗ và vật liệu xây dựng đạt 1.417,0 tỷ đồng, tăng 11,95% so với quý cùng kỳ. Dự ước doanh thu cả năm 2021 đạt 45.003,1 tỷ đồng, tăng 8,46% so với cùng kỳ; một số nhóm hàng có mức tăng cao như xăng dầu các loại đạt 4.657,8 tỷ đồng, tăng 52,30%; lương thực, thực phẩm đạt 20.060,3 tỷ đồng, tăng 13,05% và nhóm ô tô các loại đạt 499,6 tỷ đồng, giảm 45,72%, giảm nhiều nhất trong 12 nhóm hàng hóa.

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tháng 12/2021 ước đạt 677,3 tỷ đồng, giảm 19,34% so với cùng kỳ; trong đó, doanh thu dịch vụ lưu trú đạt 63,4 tỷ đồng, bằng 48,33%; doanh thu dịch vụ ăn uống đạt 613,9 tỷ đồng, giảm 13,35% so với cùng kỳ. Tổng lượt khách ngủ qua đêm tại các cơ sở lưu trú đạt 141,2 nghìn lượt khách, bằng 36,53% so với cùng kỳ. Dự ước quý IV năm 2021 doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 1.449,3 tỷ đồng, bằng 52,20% so với cùng kỳ năm trước; tổng lượt khách ngủ qua đêm tại các cơ sở lưu trú đạt 202,2 nghìn lượt khách, bằng 17,72% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống cả năm 2021 ước đạt 5.317,6 tỷ đồng, giảm 39,05% so với cùng kỳ; trong đó doanh thu dịch vụ lưu trú đạt 644,8 tỷ đồng, bằng 53,86%; doanh thu dịch vụ ăn uống đạt 4.672,8 tỷ đồng, giảm 37,92% so với cùng kỳ. Tổng lượt khách ngủ qua đêm tại các cơ sở lưu trú năm 2021 đạt 1.784,4 nghìn lượt khách, bằng 49,36% (khách trong nước đạt 1.768,1 nghìn lượt khách, bằng 50,4%; khách quốc tế đạt 16,3 nghìn lượt khách, bằng 15,2% so với cùng kỳ).

Doanh thu dịch vụ tiêu dùng khác tháng 12/2021 ước đạt 514,1 tỷ đồng, bằng 68,61% so với cùng kỳ năm trước; riêng nhóm dịch vụ y tế và trợ giúp xã hội đạt 55,3 tỷ đồng, tăng 4,43%; còn lại 06 nhóm dịch vụ có doanh thu giảm từ 2,11% đến 50,12% (nhóm dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí đạt 168,1 tỷ đồng, giảm nhiều nhất với 50,12% so với tháng cùng kỳ). Dự ước trong quý IV, doanh thu dịch vụ tiêu dùng khác đạt 1.320,6 tỷ đồng, bằng 59,02% so với cùng kỳ năm trước; hầu hết doanh thu các nhóm dịch vụ đều giảm từ 6,66% đến 61,66%. Doanh thu dịch vụ tiêu dùng khác cả năm 2021 đạt 5.741,1 tỷ đồng, bằng 76,43% so với cùng kỳ; một số nhóm chiếm tỷ trong lớn như dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí đạt 2.386,1 tỷ đồng, bằng 68,56%; dịch vụ kinh doanh bất động sản đạt 1.720,1 tỷ đồng, giảm 14,32% so với cùng kỳ.

6. Giá cả thị trường

6.1. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2021 tăng 0,24% so với tháng trước, tăng 2,27% so với tháng cùng kỳ và bình quân 12 tháng năm 2021 tăng 1,96% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chỉ số giá tiêu dùng CPI tháng này tăng là do tình hình sản xuất kinh doanh đang trong giai đoạn hồi phục, chi phí sản xuất, chí phí vận chuyển tăng cao và nhu cầu tiêu dùng của dân cư các tháng cuối năm như mua sắm một số trang thiết bị, đồ dùng thiết yếu trong gia đình tăng, tác động làm tăng chỉ số giá tháng này. Ngược lại cũng có những yếu tố giảm giá như: Giá xăng, dầu điều chỉnh giảm ngày 25/11/2021 và ngày 10/12/2021; giá gas trong nước điều chỉnh giảm 24.000 đồng/bình 12kg so với tháng trước.

Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng so với tháng trước, có 09 nhóm chỉ số giá tăng nhẹ từ 0,05% đến 1,02%; trong đó, nhóm thuốc và dịch vụ y tế có mức tăng thấp nhất là 0,05% và nhóm có mức tăng cao nhất 1,02% là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống; nhóm giao thông giảm 1,54%; riêng nhóm bưu chính viễn thông ổn định so với tháng trước.

6.2. Ch s giá vàng và Đô la M

Giá vàng thế giới tăng trong khi lạm phát vẫn là mối lo ngại hàng đầu của nhà đầu tư, cùng với căng thẳng địa chính trị và sự lây lan của biến chủng Omicron; giá vàng tăng còn do sức cầu đối với vàng vật chất tăng mạnh khi một số nước vào cao điểm tiêu thụ vàng. Giá vàng trên địa bàn tỉnh bình quân dao động quanh mức 6,05 triệu đồng/chỉ, tăng 2,8% so với tháng trước, tăng 9,38% so với tháng cùng kỳ và bình quân 12 tháng năm 2021 tăng 12,32% so với cùng kỳ.

Giá USD tăng, nguyên nhân chính là do vào dịp cuối năm nhu cầu thanh toán quốc tế của các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhập khẩu tăng lên khá nhiều; nhu cầu từ cả phía doanh nghiệp trong nước lẫn nhóm nhà đầu tư nước ngoài đã phần nào gây áp lực lên tỷ giá trong ngắn hạn. Tỷ giá USD trên địa bàn tỉnh dao động quanh mức 23.500 đồng/USD, tăng 0,53% so với tháng trước, tăng 1,17% so với tháng cùng kỳ và bình quân 12 tháng năm 2021 giảm 0,94% so với cùng kỳ

6.3. Chỉ số giá sản xuất

Trong quý IV năm 2021, tình hình dịch bệnh Covid-19 tiếp tục diễn biến ngày càng phức tạp, ảnh hưởng hầu hết đến các tỉnh, thành trong cả nước; tác động xấu đến tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân; bên cạnh đó, tình hình kinh tế thế giới suy thoái do ảnh hưởng dịch cũng đã tác động trực tiếp, gián tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nước nói chung và tỉnh Lâm Đồng nói riêng, giá cả hàng hóa, dịch vụ trên thị trường biến động thất thường.

Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản quý IV năm 2021 tăng 9,95% so với cùng kỳ và tăng 5,66% so với quý trước. Trong đó, chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất nông nghiệp tăng 10,12% so với cùng kỳ và tăng 5,74% so với quý trước; cụ thể: cây hàng năm tăng 3,54% so với cùng kỳ và tăng 7,92% so với quý trước; cây lâu năm tăng 22,41% so với cùng kỳ và tăng 7,88% so với quý trước; sản phẩm chăn nuôi có chỉ số giá bán giảm nhiều, giảm 12,89% so với cùng kỳ và giảm 6,9% so với quý trước. Sản phẩm lâm nghiệp tăng 1,02% so với cùng kỳ và tăng 1,03% so với quý trước. Sản phẩm thủy sản tăng 2,66% so với cùng kỳ và tăng 1,22% so với quý trước.

Chỉ số giá sản xuất hàng công nghiệp quý IV năm 2021 tăng 3,99% so với cùng kỳ; trong đó, có 01 nhóm sản phẩm chỉ số giá giảm và 03 nhóm sản phẩm tăng nhẹ từ 0,08% đến 13,29%; nhóm sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo có chỉ số giá tăng nhẹ 0,08%, nhóm điện và phân phối điện tăng cao nhất với 13,29% do sản lượng điện của Công ty cổ phần thủy điện Đa Nhim – Hàm Thuận – Đa Mi sản xuất cao hơn sản lượng trong hợp đồng đã ký với Tập đoàn Điện lực Việt Nam; riêng nhóm sản phẩm khai khoáng giảm 2,01%, nguyên nhân chủ yếu do sản phẩm quặng kim loại và tinh kim loại có sự điều chỉnh giảm về giá bán so với năm 2020. So với quý trước, chỉ số giá sản xuất hàng công nghiệp tăng 3,25%; trong 04 nhóm sản phẩm có 02 nhóm có chỉ số giá giảm và 02 nhóm tăng; nhóm điện và phân phối điện tăng khá 106,98%; nhóm nước, dịch vụ quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm nhiều nhất là 0,64%.

Chỉ số giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu dùng cho sản xuất quý IV năm 2021 tăng 12,71% so với cùng kỳ và tăng 3,45% so với quý trước. So với cùng kỳ, có 02 nhóm có chỉ số giá giảm là nhóm sản phẩm ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm 1,8%; nhóm nước khai thác tự nhiên giảm 1,7%; chỉ số giá 04 nhóm còn lại tăng từ 0,6% đến 5,36%. So với quý trước, hầu hết các nhóm đều có chỉ số giá tăng nhẹ từ 0,05% đến 4,9% (nhóm sản phẩm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có mức tăng cao nhất 4,9% và nhóm có mức tăng thấp nhất là nhóm nước khai thác tự nhiên với 0,05%).

Chỉ số giá cước vận tải kho bãi quý IV năm 2021 tăng 4,21% so với cùng kỳ và tăng 2,21% so với quý trước, nguyên nhân chính do giá nguyên, nhiên liệu liên tục tăng cao, nhu cầu lưu thông hàng hóa trong và ngoài tỉnh tăng làm tăng phí vận chuyển và bốc xếp hàng hóa, ngoài ra một số nhà xe vận chuyển hành khách điều chỉnh tăng giá cước đã tác động đến chỉ số giá vận tải kho bãi quý IV. Trong đó, giá cước dịch vụ vận tải hành khách tăng 1,19% so với cùng kỳ và tăng 1,52% so với quý trước; giá cước dịch vụ vận tải hàng hóa tăng 6,56% so với cùng kỳ và tăng 2,94% so với quý trước; dịch vụ kho bãi và hỗ trợ vận tải tăng 1,27% so với cùng kỳ và tăng 0,42% so với quý trước; riêng dịch vụ bưu chính, chuyển phát ổn định. Chia theo ngành vận tải thì dịch vụ vận tải đường bộ tăng 5,45% so với cùng kỳ và tăng 2,66% so với quý trước; dịch vụ vận tải hàng không giảm 18,85% so với cùng kỳ và giảm 4,55% so với quý trước.

Chỉ số giá dịch vụ quý IV năm 2021 tăng 1,83% so với cùng kỳ và giảm 0,01% so với quý trước. Trong đó, nhóm giáo dục và đào tạo giảm 0,07%, 09 nhóm dịch vụ còn lại đều tăng nhẹ từ 0,21% (hoạt động chuyên môn khoa học và công nghệ) đến 4,64% (hoạt động tài chính ngân hàng và bảo hiểm) so với cùng kỳ. So với quý trước, có 03 nhóm giảm, nhóm giảm nhiều nhất là nhóm hoạt động tài chính ngân hàng và bảo hiểm giảm 1,1%; có 05 nhóm tăng từ 0,03% đến 1,04%, nhóm y tế và trợ giúp xã hội là nhóm có mức tăng cao nhất 1,04%; 02 nhóm còn lại là nhóm thông tin, truyền thông và nhóm hoạt động làm thuê các công việc trong hộ gia đình có chỉ số giá ổn định.

6.3. Hoạt động vận tải

Hoạt động vận tải trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng có nhiều chuyển biến tích cực. Hoạt động vận tải hành khách liên tỉnh đã kết nối với các tỉnh trong việc vận chuyển hành khách; tuy nhiên do tình hình dịch Covid-19 lây lan trong cộng đồng ngày càng tăng đã tác động đến tâm lý nhân dân trong việc sử dụng phương tiện công cộng để đi lại, vì thế tốc độ tăng trưởng ngành vận tải có tăng nhưng chủ yếu ở vận tải hàng hóa.

Doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải ước tháng 12/2021 đạt 307,3 tỷ đồng, giảm 14,63% so với cùng kỳ; trong đó, doanh thu vận tải đường bộ đạt 268,9 tỷ đồng, giảm 16,6%; doanh thu kho bãi và các hoạt động dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 38,4 tỷ đồng, tăng 2,36% so với cùng kỳ. Dự ước doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải quý IV năm 2021 đạt 768,8 tỷ đồng, giảm 25,1% so với cùng kỳ; trong đó, doanh thu vận tải đường bộ đạt 682,5 tỷ đồng, giảm 24,93%; doanh thu kho bãi và các hoạt động dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 86,2 tỷ đồng, giảm 26,35% so với cùng kỳ. Doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải cả năm 2021 ước đạt 3.186,6 tỷ đồng, giảm 6,63% so với cùng kỳ; trong đó, doanh thu vận tải đường bộ đạt 2.827,1 tỷ đồng, giảm 2,91%; doanh thu kho bãi và các hoạt động dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 359,2 tỷ đồng, giảm 28,28% so với cùng kỳ.

Doanh thu vận tải hành khách tháng 12/2021 ước đạt 67,1 tỷ đồng, bằng 51,96%; khối lượng vận chuyển đạt 1.760,7 nghìn hành khách, bằng 53,47% và luân chuyển đạt 136,1 triệu hành khách.km, bằng 47,68% so với cùng kỳ. Doanh thu vận tải hành khách quý IV năm 2021 ước đạt 133,1 tỷ đồng, bằng 36,5%; khối lượng vận chuyển đạt 3.417,7 nghìn hành khách, bằng 37,45% và luân chuyển đạt 261,5 triệu hành khách.km, bằng 31,74% so với cùng kỳ. Dự ước doanh thu vận tải hành khách cả năm 2021 ước đạt 826 tỷ đồng, bằng 70,22%; khối lượng vận chuyển đạt 19.461,2 nghìn hành khách, bằng 69,68% và luân chuyển đạt 1.983,5 triệu hành khách.km, bằng 70,67% so với cùng kỳ.

Doanh thu vận tải hàng hoá tháng 12/2021 ước đạt 201,8 tỷ đồng, tăng 4,41%; khối lượng hàng hoá vận chuyển đạt 1.711 nghìn tấn, tăng 37% và luân chuyển đạt 152,1 triệu tấn.km, giảm 10,02% so với cùng kỳ. Doanh thu vận tải hàng hoá quý IV năm 2021 ước đạt 549,4 tỷ đồng, tăng 0,89%; khối lượng hàng hoá vận chuyển đạt 4.706 nghìn tấn, tăng 45,63% và luân chuyển đạt 415,3 triệu tấn.km, giảm 12,65% so với cùng kỳ. Dự ước doanh thu vận tải hàng hoá cả năm 2021 đạt 2.001,3 tỷ đồng, tăng 15,3%; khối lượng hàng hoá vận chuyển đạt 19.230 nghìn tấn, tăng 68,53% và luân chuyển đạt 1.594,6 triệu tấn.km, tăng 6,5% so với cùng kỳ.

7. Các vấn đề xã hội

7.1. Lao động và việc làm

Tình hình lao động và việc làm trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng đã có dấu hiệu hồi phục trong quý IV, chủ yếu là lao động thời vụ từ các tỉnh đến thu hoạch cà phê,  lao động thuộc lĩnh vực hoạt động dịch vụ, du lịch, vận tải từng bước cải thiện. Số người thất nghiệp quý III/2021 từ 32.047 người xuống còn 11.926 người trong quý IV/2021.

Lao động đang làm việc: Dự ước đến 31/12/2021 toàn tỉnh có 777.963 người đang làm việc, trong đó tỷ trọng lao động đang làm việc ở khu vực nông thôn là 64%, tương đương 497.712 người, cao gấp 1,78 lần so với khu vực thành thị với 280.251 người, chiếm 36% người.

Quy mô và tỷ lệ người thiếu việc làm và thất nghiệp: Dự ước tại thời điểm 31/12/2021 toàn tỉnh Lâm Đồng có 17.851 người thiếu việc làm (tỷ lệ là 2,26%), trong đó khu vực nông thôn có 4.325 người (tỷ lệ là 0,87%), khu vực thành thị là 13.526 người thiếu việc làm (tỷ lệ là 4,65%). Tỷ lệ thất nghiệp tại thời điểm 31/12/2021 là 1,51%, tương đương với 11.926 người thất nghiệp, trong đó tỷ lệ thất nghiệp thành thị là 3,59%, tương đương với 10.428 người; khu vực nông thôn có 1.498 người, chiếm tỷ lệ 0,3%.

7.2. Đời sống dân cư và an sinh xã hội

Đời sống dân cư: Nhìn chung, trong năm 2021 trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động hưởng lương có cuộc sống ổn định. Những người làm công ăn lương, lao động làm thuê trong các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất thuộc ngành nông, lâm nghiệp có thu nhập và đời sống giảm nhẹ. Đối với người làm công ăn lương, lao động làm thuê trong các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất phi nông, lâm nghiệp, nhất là khu vực thành thị, nhìn chung đều bị ảnh hưởng lớn của dịch bệnh Covid-19, dẫn đến thất nghiệp, công việc không ổn định, thu nhập và đời sống đã giảm sút.

Tham gia BHYT, bảo hiểm xã hội[10]: Dự ước đến 31/12/2021 toàn tỉnh Lâm Đồng có 1.197.100 đối tượng tham gia BHYT, tỷ lệ bao phủ BHYT toàn tỉnh đạt 90,6% (Dân số trung bình ước năm 2021: 1.321.839 người), tăng 3,61% (41.757 người) so với cùng kỳ.

Hộ nghèo, cận nghèo: Hiện hộ nghèo toàn tỉnh còn 4.488 hộ, chiếm tỷ lệ 1,32%, trong đó hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số còn 2.793 hộ, tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số là 3,58%. Hộ cận nghèo toàn tỉnh còn 11.390 hộ, chiếm tỷ lệ 3,34%, trong đó hộ cận nghèo đồng bào dân tộc thiểu số là 6.728 hộ, tỷ lệ hộ cận nghèo dân tộc thiểu số còn 8,63%. Dự kiến cuối năm 2021 tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm xuống còn 1,01%, trong đó tỷ lệ hộ nghèo đồng bào DTTS còn 2,58% theo chuẩn nghèo đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020.

Tình hình hỗ trợ do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid -19: Trước những khó khăn chung của cả nước và tỉnh Lâm Đồng nói riêng, trong năm 2021 đã được sự quan tâm kịp thời của Nhà nước chi hỗ trợ cho các đối tượng bị ảnh hưởng do dịch bệnh Covid-19 tính đến ngày 13/12/2021 với hơn 109.276 đối tượng, tổng số tiền hỗ trợ trên 163.914 triệu đồng đã mang lại hiệu quả thiết thực.

Từ đầu năm đến nay không xảy ra tình trạng thiếu đói giáp hạt, nên không phải cứu trợ. Kết quả tặng quà, trợ cấp Tết Nguyên đán Tân Sửu 2021 từ 2 nguồn ngân sách Trung ương và địa phương với tổng số tiền tặng quà bằng tiền mặt và hiện vật trị giá là 50,7 tỷ đồng (Năm 2020: 44,2 tỷ đồng), tương ứng với 111.495 suất quà (Năm 2020: 115.232 suất quà).

7.3. Chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới[11]

 Xã nông thôn mới: Đến nay, trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng có 104 xã đạt chuẩn nông thôn mới (đạt 93,69%), dự kiến hết năm 2021 có 24 xã nông thôn mới nâng cao (trong đó có 07 xã đạt tiêu chí kiểu mẫu).

Huyện nông thôn mới: Có 03 huyện đạt chuẩn nông thôn mới (Đơn Dương, Đức Trọng, Đạ Tẻh) và 02 thành phố (Đà Lạt và Bảo Lộc) hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới; 02 huyện Cát Tiên và Lâm Hà đang lập hồ sơ trình Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thẩm định theo quy định.

7.4. Hoạt động văn hóa - tuyên truyền      

Trong năm 2021, công tác thông tin và tuyên truyền trên địa bàn tỉnh với nhiều hình thức, nội dung phong phú, đa dạng phù hợp với nội dung, mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của các hoạt động phục vụ các sự kiện chính trị, các ngày lễ lớn của đất nước, địa phương, tuyên truyền cổ động trực quan, tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ phục vụ nhiệm vụ chính trị của đất nước, địa phương; trong đó tập trung: Chào mừng thành công Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, Tết Nguyên đán Tân Sửu 2021 gắn với đảm bảo an toàn trong công tác phòng chống dịch Covid-19; Tuyên truyền bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, nhiệm kỳ 2021 – 2026; tuyên truyền phòng, chống dịch bệnh Covid 19. Thực hiện 04 Pano tấm lớn và 04 Cụm Pano mô hình 3D, 233 Pano hộp 2 mặt, 150 Pano 1 mặt, 200 phướn, 600 cờ và xã hội hóa 200 pano hộp 2 mặt trên đường cao tốc Liên Khương - Prenn. Trung tâm Phát hành Phim và Chiếu bóng Lâm Đồng thực hiện, biên tập 39 tài liệu tuyên truyền xe loa, 290 m2 pano cổ động, 15 tiểu phẩm tình huống tuyên truyền luật giao thông đường bộ. Chọn lọc, hướng dẫn khai thác 41 phim truyện, phim tài liệu, phim hoạt hình, phóng sự, các chuyên mục giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc… Hoạt động chiếu bóng lưu động thực hiện 550 buổi (đạt 105,7% kế hoạch năm), phục vụ 282.000 lượt người xem tại vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số.

Bảo tàng Lâm Đồng đón 17.674 lượt khách, với 44 khách quốc tế[12]. Thư viện tỉnh cấp 5.011 thẻ bạn đọc, phục vụ 905.852 lượt bạn đọc và luân chuyển 257.501 lượt tài liệu; bổ sung 13.885 bản sách in nâng tổng số tài liệu Thư viện tỉnh hiện có là 284.397 bản.

Công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở: Năm 2021, tỷ lệ hộ gia đình văn hóa đạt 90,5%; tỷ lệ thôn, buôn, tổ dân phố văn hóa đạt 95%; tỷ lệ xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới đạt 96,4%; tỷ lệ phường, thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị đạt 88%; cơ quan, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa đạt 98%.

7.5. Hoạt động thể dục - thể thao

Thể thao thành tích cao: Trong năm Đoàn thể thao Lâm Đồng đã tham gia thi đấu giải thể thao khu vực và quốc gia. Kết quả đạt được 31 huy chương (12 huy chương vàng, 06 huy chương bạc, 13 huy chương đồng).

Thể dục thể thao quần chúng: Do dịch Covid-19 diễn biến phức tạp nên tạm dừng phối hợp, tổ chức các hoạt động thể thao phong trào, các giải tỉnh.

7.6. Hoạt động giáo dục - đào tạo[13]

Tỉnh Lâm Đồng kết thúc Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2021 an toàn, nghiêm túc, đúng quy chế, thực hiện đúng các quy định về công tác phòng chống dịch bệnh Covid-19. Kết quả xét tốt nghiệp chung cả 02 đợt như sau: 13.789/13.839 (99,64%) thí sinh được công nhận tốt nghiệp THPT (tăng 0,1% so với năm học trước); hệ THPT có 13.369/13.405 (99,73%); hệ GDTX có 408/416 (98,08%); thí sinh tự do có 12/18 (66,67%). Theo thống kê của Bộ Giáo dục- Đào tạo, tỷ lệ tốt nghiệp THPT năm 2021 của tỉnh Lâm Đồng xếp hạng 11 trên toàn quốc.

Năm học 2021-2022, toàn ngành có 686 đơn vị trường học (Mầm non: 231, Tiểu học: 226, THCS: 157, THPT: 59, GDTX tỉnh: 01, GDNN-GDTX: 11, CĐSP:01), giảm 17 trường; số học sinh: 334.375 học sinh (Mầm non: 61.809, Tiểu học: 135.153, THCS: 90.923, THPT: 44.450, GDTX và GDNN-GDTX: 1.365, CĐSP: 560); Cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên 22.118 người.

Trên cơ sở Kế hoạch của Bộ Giáo dục và Đào tạo và diễn biến của dịch bệnh Covid-19 đang diễn ra hết sức phức tạp, Sở Giáo dục – Đào tạo tỉnh Lâm Đồng đã triển khai các phương án dạy học năm học 2021-2022 theo 3 phương án là dạy học trực tuyến, dạy học qua truyền hình và dạy học trực tiếp tùy theo ảnh hưởng dịch Covid ở mức độ nguy cơ, nguy cơ cao và nguy cơ rất cao để đảm bảo an toàn phòng chống Covid-19. Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, khắc phục các bất cập trong tổ chức dạy và học trực tuyến, đồng thời chuyển đổi hình thức học trực tuyến sang trực tiếp khi đã tiêm đủ vắc xin cho học sinh các cấp học. Đẩy mạnh chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo, đa dạng hóa các hình thức dạy và học nếu tình hình dịch Covid-19 còn phức tạp, kéo dài.

7.7. Hoạt động y tế[14]               

Trong năm 2021 đã tập trung, chủ động triển khai các biện pháp phòng, chống dịch viêm đường hô hấp cấp do SARS-Cov-2 theo chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Y tế, kiên quyết không để dịch bùng phát lớn xảy ra trên địa bàn, kịp thời xử lý các trường hợp phát sinh, không để dịch bệnh lây lan ngoài tầm kiểm soát.

Tính đến ngày 21/12/2021, toàn tỉnh Lâm Đồng đã tiêm 2.133.823 liều, đạt tỷ lệ 99,2%, (trong đó: số đã tiêm 1 mũi là 1.101.569 người; tiêm đủ 2 mũi là 1.018.816 người.

Công tác phòng chữa bệnh từ đầu năm đến 20/12/2021: Bệnh phong phát hiện 01 bệnh nhân phong mới, quản lý 152 bệnh nhân; phát hiện 494 bênh nhân lao mới; bệnh sốt rét có 07 trường hợp và 896 bệnh nhân sốt xuất huyết. 

Công tác bảo vệ sức khoẻ tâm thần cộng đồng: Hiện toàn tỉnh quản lý và điều trị cho 1.217 bệnh nhân tâm thần phân liệt và 1.556 bệnh nhân động kinh.

Công tác tiêm chủng mở rộng: Từ đầu năm đến nay đã tiêm chủng đầy đủ cho 21.706 trẻ; tiêm viêm gan B trước 24 giờ cho 19.034 trẻ sơ sinh; tiêm phòng uốn ván 2+ cho trên 18.722 phụ nữ có thai. Tổ chức tiêm cho trẻ 18 tháng tuổi vắc xin sởi mũi 2 cho 22.107 trẻ, bạch hầu - ho gà - uốn ván (DTC) mũi 4 cho 22.107; tiêm vắc xin Viêm não Nhật Bản cho trẻ từ 12 tháng tuổi mũi 1 là 22.084 trẻ; mũi 2 là 21.914 trẻ và mũi 3 là 21.696 trẻ.

Công tác phòng chống HIV/AIDS: Trong năm 2021, toàn tỉnh có 36 trường hợp nhiễm HIV mới đưa vào quản lý (tích luỹ: 1.757 trường hợp); có 03 trường hợp chuyển AIDS mới (tích luỹ: 289 trường hợp) và có 07 trường hợp tử vong do AIDS (tích luỹ: 599 trường hợp).

Chương trình mục tiêu vệ sinh an toàn thực phẩm: Từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng đã xảy ra 02 vụ ngộ độc thực phẩm với 35 người mắc, không có trường hợp tử vong do ngộ độc thực phẩm.

7.8. Tình hình an toàn giao thông

Tình hình tai nạn giao thông trên địa bàn tỉnh tính từ ngày 15/11/2021 đến ngày 14/12/2021 xảy ra 25 vụ, tăng 01 vụ; số người chết là 10 người, giảm 07 người; số người bị thương là 12 người, tăng 02 người. Tính từ ngày 15/12/2020 đến ngày 14/12/2021, tình hình tai nạn giao thông trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 137 vụ, giảm 24 vụ; số người chết là 78 người, giảm 20 người; số người bị thương là 86 người, giảm 13 người so với cùng kỳ. Trong tháng, thực hiện đăng ký mới cho 994 ôtô và 4.929 môtô. Tổng số phương tiện đang quản lý: 80.639 xe ôtô; 1.140.833 xe môtô; 103 phương tiện đường thủy, lực lượng công an toàn tỉnh phát hiện, xử lý 4.842 trường hợp; tổng số tiền xử phạt là 2,9 tỷ đồng; tước 105 giấy phép lái xe; tạm giữ 22 ô tô, 238 mô tô; trong đó có 33 trường hợp vi phạm nồng độ cồn, 12 trường hợp chở hàng quá trọng tải.

7.9. Tình hình cháy, nổ và vi phạm môi trường

Từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh xảy ra 05 vụ cháy, làm 03 người bị thương, giá trị thiệt hại về tài sản khoảng 2,6 tỷ đồng.

Về vi phạm môi trường: Trong năm 2021 UBND tỉnh Lâm Đồng đã có Quyết định “Xử phạt vi phạm hành chính” và yêu cầu khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường đối với 03 vụ vi phạm môi trường với tổng số tiền 733 triệu đồng.

7.10. Tình hình thiệt hại do thiên tai:

Tổng hợp thiên tai năm 2021 trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng do mưa đá, lốc xoáy kéo theo mưa lớn, sét đánh, sạt lở đất gây thiệt hại như sau:

(1). Thiệt hại về người: chết 04 người và 04 người bị thương.

(2). Thiệt hại về tài sản gồm: nhà sập và bị cuốn trôi 9 căn, tốc mái hư hại 226 căn, diện tích hoa màu và cây lâu năm bị hư hại 860 ha và 120 cây mắc ca đang vào thời kỳ cho thu hoạch bị gãy đổ, gia cầm cuốn trôi 5.700 con; Ước tổng thiệt hại về tài sản khoảng: 42,7 tỷ đồng, tăng 40,61 tỷ đồng so với cùng kỳ. Hộ có nhà bị cuốn trôi được hỗ trợ 15 triệu đồng.

8. Một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu năm 2022

Bước sang năm 2022, trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, nhiệm vụ đặt ra đòi hỏi sự chung sức, đồng lòng và nỗ lực phấn đấu của toàn bộ hệ thống chính trị để thể hiện đạt mức cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2022. Các ngành, các cấp tập trung, ưu tiên nguồn lực cho phòng, chống dịch bệnh Covid-19 trên cơ sở kết hợp linh hoạt, sáng tạo, hài hòa, hiệu quả giữa phòng, chống dịch và phát triển kinh tế - xã hội.

Một là, tập trung nỗ lực cao nhất cho phòng chống dịch Covid-19, đặt sức khỏe, tính mạng Nhân dân lên trên hết, trước hết; thực hiện linh hoạt, hiệu quả mục tiêu vừa phòng chống dịch Covid-19, vừa phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội; xác định phòng chống dịch là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, lâu dài, tuyệt đối không lơ là, chủ quan, mất cảnh giác; chủ động, tăng cường phối hợp trong xây dựng kịch bản phòng chống phù hợp với diễn biến của dịch, hạn chế thấp nhất ảnh hưởng đến đời sống Nhân dân. Tiếp tục triển khai kịp thời các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và người dân vượt qua khó khăn, nhất là các lĩnh vực quan trọng, đang bị tác động trực tiếp bởi đại dịch Covid-19, tạo nền tảng cho các hoạt động của đời sống kinh tế - xã hội từng bước trở về trạng thái bình thường mới.

Hai là, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh dựa trên nền tảng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển kinh tế số, xã hội số, xây dựng và phát triển chính quyền điện tử góp phần phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội địa phương.

Ba là, tiếp tục nâng cao hiệu quả và tập trung nguồn lực đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng quan trọng, thiết yếu. Từng bước hình thành hệ thống đô thị có kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, thân thiện với môi trường.

Bốn là, phát triển nông nghiệp theo hướng đa ngành, nông nghiệp xanh, hiện đại, giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh cao; phát triển nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, thông minh trong điều kiện ứng phó biến đổi khí hậu.

Năm là, đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo từ các nguyên liệu, sản phẩm có lợi thế của địa phương, công nghiệp hỗ trợ, dược phẩm... theo hướng ứng dụng công nghệ cao, thân thiện môi trường; tăng tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm sản và khoáng sản đã qua chế biến, hạn chế xuất khẩu thô. Sớm đưa nhà máy sản xuất điện gió vào hoạt động góp phần thức đẩy tăng trưởng ngành sản xuất điện trên địa bàn.

Sáu là, tập trung nghiên cứu thực hiện đồng bộ các giải pháp để sớm khôi phục ngành du lịch, tạo thuận lợi cho ngành du lịch phát triển, thực sự trở thành ngành kinh tế động lực của tỉnh. Tiếp tục đẩy mạnh quảng bá, xúc tiến, liên kết du lịch, đầu tư các loại hình, sản phẩm du lịch mới, cao cấp, các dịch vụ du lịch gắn với kinh tế ban đêm và hợp tác xây dựng các tuyến du lịch kết nối Đà Lạt với các trung tâm du lịch, dịch vụ lớn trong nước và quốc tế.

Bảy là, thực hiện đồng bộ các giải pháp giải quyết việc làm và đẩy mạnh giảm nghèo bền vững theo chuẩn nghèo mới, giảm nghèo nhanh hơn trong đồng bào dân tộc thiểu số và địa bàn đặc biệt khó khăn. Thực hiện tốt công tác trợ giúp đột xuất, bảo đảm người dân khi gặp rủi ro, thiên tai được hỗ trợ kịp thời, khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống. Tăng cường công tác bảo đảm an toàn trật tự xã hội, bảo vệ môi trường.


[1] Hỗ trợ, hướng dẫn lập hồ đề nghị công nhận 02 vùng nông nghiệp ứng dụng CNC, gồm: vùng chè Lộc Tân, huyện Bảo Lâm quy 309 ha; vùng sầu riêng Lâm, huyện Đạ Huoai 300 ha (đạt 100% KH). Phát triển 376,6 ha diện tích cây trồng ứng dụng nông nghiệp thông minh (tăng 141,5 ha so với năm 2020); trong đó: 173,8 ha rau; 187,2 ha hoa; 5,5 ha dâu tây và 10 ha chè chất lượng cao.

[2]. Đàn bò thịt 72.615 con, tăng 0,54% (+391 con); đàn bò sữa đạt 24.475 con, tăng 0,27% (+65 con) so với cùng kỳ.

[3] Trong đó chủ yếu là trứng chim cút 1.385.000 ngàn quả, chiếm 78,92%, tăng 8,3% (+106.140 nghìn quả) so với cùng kỳ, do số lượng các trang trại nuôi chim cút đẻ trứng phát triển mạnh cả số lượng và quy mô, nhu cầu tiêu thụ, giá cả tăng và ổn định trong thời gian qua. 

[4] Thực hiện Kế hoạch trồng 50 triệu cây xanh trên địa bàn tỉnh các địa phương tiếp tục triển khai việc thực hiện trồng cây xanh, trồng rừng theo chỉ tiêu được giao và kế hoạch đã xây dựng. Đến nay, toàn tỉnh đã trồng được 6,03 triệu cây, đạt 179,34% chỉ tiêu kế hoạch được giao tại Kế hoạch 2209/KH-UBND.

 

 

[5] Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Lâm Đồng.

[6] Nguồn: Sở Tài chính tỉnh Lâm Đồng.

[7] Nhằm tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân bị ảnh hưởng dịch bệnh COVID-19, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 52 ngày 19/4/2021 về gia hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất.

[8] Ngày 9/9/2021 Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị quyết số 105 về hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong bối cảnh dịch COVID-19

[9] Nguồn: Ngân hàng Nhà nước tỉnh Lâm Đồng.

[10] Theo báo cáo nhanh từ Bảo hiểm Xã hội tỉnh Lâm Đồng.

[11] Tổng vốn đầu tư thực hiện chương trình nông thôn mới bằng nguồn ngân sách tỉnh năm 2021 là 150 tỷ đồng.

[12] Bảo tàng Lâm Đồng đón 11.015 lượt khách; Di tích Nhà lao thiếu nhi Đà Lạt đón 4.233 lượt khách; Di tích khảo cổ Cát Tiên đón 2.426 lượt khách)..

[13] Theo báo cáo nhanh của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Lâm Đồng.

[14] Theo báo cáo nhanh của Sở Y tế tỉnh Lâm Đồng.

 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 


Các tin khác
© Copyright 2012 CỤC THỐNG KÊ TỈNH LÂM ĐỒNG
10 Đường 3 Tháng 4, Phường 3, TP. Đà Lạt