Tình hình kinh tế - xã hội
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 5 và 5 tháng đầu năm 2021

 

1. Sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản

Tháng Năm sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản diễn ra trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi. Sản xuất nông nghiệp với nhiệm vụ trọng tâm là tập trung chăm sóc lúa đông xuân, phòng trừ sâu bệnh hại cây trồng tại các địa phương phía Bắc; chăm sóc, thu hoạch lúa, hoa màu vụ đông xuân và xuống giống lúa hè thu tại các địa phương phía Nam. Sản xuất lâm nghiệp tiếp tục tập trung vào trồng rừng mới vụ xuân hè, đẩy mạnh khai thác gỗ ở nhiều địa phươngcó diện tích rừng đã đến tuổi khai thácvới giá thu mua gỗ ổn định. Sản lượng thủy sản nuôi trồng tăng khá do nhu cầu nguyên liệu đầu vào cho các nhà máy chế biến thủy sản tăng với mức giá tăng so với cùng kỳ năm trước, thời tiết của ngư trường thuận lợi cho khai thác xa bờ.

a) Nông nghiệp

Vụ lúa đông xuân năm 2021 cả nước gieo cấy được 3.007,5 nghìn ha, bằng 99,4% năm trước, trong đó các địa phương phía Bắc đạt 1.087,1 nghìn ha, bằng 99%; các địa phương phía Nam đạt 1.920,4 nghìn ha, bằng 99,7%. Diện tích lúa đông xuân năm nay giảm 16,8 nghìn ha so với vụ đông xuân năm trước, các địa phương phía Bắc giảm 10,8 nghìn ha, các địa phương phía Nam giảm 6 nghìn ha. Bên cạnh việc chuyển đổi sang đất phi nông nghiệp phục vụ quá trình đô thị hóa, còn có nguyên nhân làm giảm diện tích lúa đông xuân là do chuyển đổi cơ cấu sản xuất, chuyển sang mô hình trang trại, gia trại trồng cây hàng năm, cây lâu năm, nuôi trồng thủy sản hoặc tại một số địa phương tập trung nhiều khu công nghiệp nông dân có xu hướng bỏ ruộng để chuyển sang hoạt động các ngành kinh tế khác nhằm mang lại thu nhập cao hơn. Trong tổng diện tích đất lúa giảm có4,2 nghìn ha do thu hồi đất, giải phóng mặt bằng để làm khu công nghiệp, làm đường, xây dựng cơ sở hạ tầng khu du lịch, xây dựng các khu đô thị mới; 8 nghìn ha chuyển sang trồng cây lâu năm; 3 nghìn ha chuyển sang nuôi trồng thủy sản.

Ngay từ đầu vụ đông xuân thời tiết ấm áp thuận lợi cho cây lúa sinh trưởng và phát triển, nguồn nước tưới tiêu được cung ứng hợp lý, nhiều giống lúa mới được đưa vào sản xuất, các biện pháp kỹ thuật làm đất, bón phân, phòng trừ sâu bệnh được người dân chủ động triển khai cùng với sự vào cuộc tích cực, sát sao của các cấp chính quyền và ngành nông nghiệp nên mặc dù diện tích gieo trồng giảm nhưng dự báo kết quả sản xuất lúa đông xuân năm nay cao hơn vụ đông xuân năm trước. Tính đến trung tuần tháng Năm, các địa phương phía Nam đã thu hoạch được 1.865,9 nghìn ha lúa đông xuân, chiếm 97,2% diện tích xuống giống và bằng 100,3% cùng kỳ năm trước, ước tính năng suất đạt 70,6 tạ/ha, tăng 3,1 tạ/ha; sản lượng ước tính đạt 13,55 triệu tấn, tăng 550,1 nghìn tấn. Riêng vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã cơ bản kết thúc vụ lúa đông xuân 2021 với diện tích thu hoạch đạt 1.506 nghìn ha, bằng 99% vụ đông xuân năm trước; năng suất lúa đạt 72 tạ/ha, tăng 3,7 tạ/ha; sản lượng đạt 10,94 triệu tấn, tăng 365,5 nghìn tấn. Một số tỉnh có năng suất tăng cao so với vụ đông xuân năm trước: Tiền Giang tăng 6,3[1] tạ/ha; An Giang, Kiên Giang và Sóc Trăng đều tăng trên 3 tạ/ha.

Cùng với thu hoạch lúa đông xuân, đến trung tuần tháng Năm, các địa phương phía Nam gieo trồng được 875 nghìn ha lúa hè thu, bằng 97,2% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 803,3 nghìn ha, bằng 99,7%. Tiến độ gieo trồng lúa hè thu năm nay chậm do vụ lúa đông xuân gieo trồng và thu hoạch theo khung thời vụ muộn hơn năm trước. Hiện lúa hè thu đang ở giai đoạn đẻ nhánh đến chắc xanh, cây lúa sinh trưởng và phát triển tốt. Tuy nhiên, do đặc điểm lúa hè thu sinh trưởng trong điều kiện nắng nóng, nền nhiệt cao, có thể thiếu nước ở đầu vụ, nhưng lại thu hoạch vào thời điểm có mưa đầu mùa, nên các địa phương cần khuyến cáo nông dân chọn các giống lúa chất lượng cao, có thời gian sinh trưởng ngắn ngày để gieo trồng, đồng thời tuân thủ nghiêm ngặt lịch xuống giống để phòng chống sâu bệnh, lũ lụt và sản xuất vụ lúa tiếp theo.

Tính đến giữa tháng Năm, cả nước gieo trồng được 451,8 nghìn ha ngô, bằng 99,3% cùng kỳ năm trước; 73,1 nghìn ha khoai lang, bằng 95,4%; 16,3 nghìn ha đậu tương, bằng 87,2%; 121,1 nghìn ha lạc, bằng 96,3%; 649,9 nghìn ha rau đậu các loại, bằng 101,3%.

Về chăn nuôi, hiện nay dịch viêm da nổi cục ở trâu, bò đang diễn biến phức tạp, dịch bệnh đã xảy ra tại 28 địa phương. Để công tác kiểm soát dịch bệnh được kịp thời, hiệu quả, giảm thiệt hại đến mức thấp nhất cho người chăn nuôi, chính quyền địa phương và các cơ quan chuyên ngành cần triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp phòng, chống dịch bệnh. Ước tính tổng số trâu của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 5/2021 giảm 2,8% so với cùng thời điểm năm 2020; tổng số bò tăng 2%. Dịch tả lợn châu Phi tiếp tục được kiểm soát tốt, chỉ còn phát sinh những ổ dịch nhỏ lẻ. Tuy nhiên, giá thức ăn chăn nuôi tăng cao gây khó khăn cho chăn nuôi đặc biệt là hộ chăn nuôi gia cầm nhỏ. Ước tính đến cuối tháng Năm, tổng số lợn của cả nước tăng 11,8% so với cùng thời điểm năm trước; tổng số gia cầm tăng 6,4%.

Tính đến ngày 24/5/2021, cả nước không còn dịch tai xanh ở lợn và dịch cúm gia cầm; dịch lở mồm long móng còn ở Bắc Kạn, Lạng Sơn, Sơn La, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Kon Tum, Phú Yên; dịch tả lợn châu Phi còn ở 30 địa phương[2] và dịch viêm da nổi cục còn ở 27 địa phương[3] chưa qua 21 ngày.

b) Lâm nghiệp

Tháng 5/2021, diện tích rừng trồng mới tập trung của cả nước ước đạt 26,5 nghìn ha, tăng 2­% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 6,6 triệu cây, tăng 0,8%; sản lượng gỗ khai thác đạt 1.783,5 nghìn m3, tăng 6,8%; sản lượng củi khai thác đạt 2 triệu ste, bằng cùng kỳ năm trước. Sản lượng gỗ khai thác cao tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Trung như: Nghệ An 160,4 nghìn m3, tăng 9,7% so với tháng 5/2020; Bình Định 140,2 nghìn m3, tăng 11,6%; Thừa Thiên - Huế 56,4 nghìn m3, tăng 40,2%.

Tính chung 5 tháng đầu năm 2021, trên cả nước diện tích rừng trồng mới tập trung đạt 88,5 nghìn ha, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 41,6 triệu cây, tăng 2,5%; sản lượng gỗ khai thác đạt 5.943,4 nghìn m3, tăng 5,4%; sản lượng củi khai thác đạt 8 triệu ste, giảm 0,1%.

Công tác phòng cháy, chữa cháy và bảo vệ rừng tiếp tục được tăng cường. Trong tháng Năm[4], cả nước có 107,9 ha rừng bị thiệt hại, giảm 29,1% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm diện tích rừng bị cháy là 31,6 ha, giảm 37,3%, các địa phương có diện tích rừng bị cháy cao là Đắk Lắk 12 ha, Quảng Ngãi 5 ha, Quảng Bình 4,8 ha, Thừa Thiên - Huế 4,3 ha; diện tích rừng bị chặt phá là 76,3 ha, giảm 25%, trong đó các tỉnh có diện tích rừng bị chặt phá cao là Nghệ An 37,5 ha, Phú Yên 12,8 ha, Khánh Hòa gần 4 ha, Lào Cai 2,8 ha. Tính chung 5 tháng đầu năm 2021, diện tích rừng bị thiệt hại là 592,7 ha, tăng 5,5% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm diện tích rừng bị cháy là 165,7 ha, giảm 29,5%; diện tích rừng bị chặt phá là 427 ha, tăng 30,7%.

c) Thủy sản

Sản lượng thủy sản tháng Năm ước tính đạt 782,8 nghìn tấn, tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm cá đạt 570,6 nghìn tấn, tăng 3%; tôm đạt 106 nghìn tấn, tăng 11,2%; thủy sản khác đạt 106,2 nghìn tấn, tăng 4,2%.

Ước tính tháng 5 năm 2021, sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 417 nghìn tấn, tăng 6,7% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm cá đạt 279,1 nghìn tấn, tăng 4,6%; tôm đạt 93 nghìn tấn, tăng 12,9%; thủy sản khác đạt 44,9 nghìn tấn, tăng 8,5%. Sản lượng cá tra trong tháng ước tính đạt 122,8 nghìn tấn, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước do các doanh nghiệp lớn tại Đồng bằng sông Cửu Long tiến hành thu mua thêm cá từ bên ngoài hệ thống sản xuất của chính doanh nghiệp để đáp ứng đủ cho các hợp đồng xuất khẩu mới[5]. Tình hình xuất khẩu tôm thẻ chân trắng có nhiều khởi sắc, mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh và bán thâm canh đang phát triển tích cực, cùng với dịch bệnh của tôm được kiểm soát tốt hơn đã mang tới hiệu quả kinh tế cao, sản lượng tôm thẻ chân trắng tháng Năm ước tính đạt 60,7 nghìn tấn, tăng 17,5% so với cùng kỳ năm trước[6]. Sản lượng tôm sú tăng, tôm nuôi đang vào thời kỳ thu hoạch nên người dân tập trung thu và chuẩn bị thả nuôi đợt tiếp theo, sản lượng tôm sú đạt 27,4 nghìn tấn, tăng3,4%[7].

Tháng 5 là tháng bắt đầu vụ cá Nam, vụ cá chính trong năm cùng với tình hình thời tiết thuận lợi cho ngư dân bám biển. Sản lượng thủy sản khai thác tháng 5/2021 ước đạt 365,8 nghìn tấn, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm cá đạt 291,5 nghìn tấn, tăng 1,5%; tôm đạt 13 nghìn tấn, tăng 0,8%; thủy sản khác đạt 61,3 nghìn tấn, tăng 1,3%. Sản lượng khai thác biển trong tháng ước đạt 349,8 nghìn tấn, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 5 tháng đầu năm 2021, sản lượng thủy sản ước đạt 3.267,7 nghìn tấn, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng nuôi trồng đạt 1.686,9 nghìn tấn, tăng 3,7%; sản lượng khai thác đạt 1.580,8 nghìn tấn, tăng 1,4% (sản lượng khai thác biển đạt 1.510,2 nghìn tấn, tăng 1,5%).

2. Sản xuất công nghiệp

Sản xuất công nghiệp tháng 5/2021 ước tính tăng 1,6% so với tháng trước và tăng 11,6% so với cùng kỳ năm trước[8]mặc dù dịch Covid-19 diễn biến phức tạp từ cuối tháng Tư vàảnh hưởng trực tiếp đến một số khu công nghiệp tại tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh nhưng đã nhanh chóng được khoanh vùng, kiểm soát. Tính chung 5 tháng đầu năm 2021, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 9,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành chế biến, chế tạo tăng 12,6%.

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 5/2021 ước tính tăng 1,6% so với tháng trước và tăng 11,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng giảm 6,4% và giảm 9,8%; ngành chế biến, chế tạo tăng 2,6% và tăng 14,6%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 2,2% và tăng 12%[9]; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 3,1% và tăng 6,8%.

Tính chung 5 tháng đầu năm 2021, ước tính IIP tăng 9,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 12,6% (cùng kỳ năm trước tăng 3,2%), đóng góp 10,2 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 8,3% (cùng kỳ năm trước tăng 2,1%), đóng góp 0,7 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,5% (cùng kỳ năm trước tăng 2,9%), đóng góp 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 7% (cùng kỳ năm trước giảm 7,7%), làm giảm 1,1 điểm phần trăm trong mức tăng chung.

Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành trọng điểm có chỉ số sản xuất 5 tháng tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất kim loại tăng 38%; sản xuất xe có động cơ tăng 35%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế tăng 18,3%; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu tăng 15,6%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 15,5%; hoạt động dịch vụ hỗ trợ khai thác mỏ và quặng tăng 14,6%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải, tái chế phế liệu tăng 14,4%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 13,6%; sản xuất đồ uống tăng 12,8%. Ở chiều ngược lại, một số ngành có chỉ số giảm: Khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 11,5%; in, sao chép bản ghi các loại giảm 5,1%; khai thác than cứng và than non giảm 3,8%; thoát nước và xử lý nước thải giảm 1,6%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế giảm 0,4%.

Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu 5 tháng đầu năm 2021 tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Thép cán tăng 60%; ô tô tăng 56%; linh kiện điện thoại tăng 36,4%; điện thoại di động tăng 22,2%; sắt, thép thô tăng 18,4%; xe máy tăng 15,3%; sơn hóa học tăng 14,6%; phân hỗn hợp NPK tăng 13,5%; ti vi tăng 13,2%; sữa bột và giày, dép da cùng tăng 12,6%; bia các loại tăng 11,7%. Một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ năm trước: Khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 13,1%; phân u rê giảm 10,8%; dầu mỏ thô khai thác giảm 9,5%; xăng, dầu các loại giảm 9,3%; bột ngọt giảm 8,6%; đường kính giảm 4,9%; than sạch giảm 3,7%.

Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/5/2021 tăng 1,2% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 2,2% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 0,2% và giảm 2%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 1% và tăng 1,5%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 1,5% và tăng 3,2%. Theo ngành hoạt động, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng tăng 0,3% so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 0,9% so với cùng thời điểm năm trước; ngành chế biến, chế tạo tăng 1,3% và tăng 2,4%; ngành sản xuất và phân phối điện không đổi và tăng 0,4%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,1% và tăng 0,2%.

3. Tình hình đăng ký doanh nghiệp[10]

Doanh nghiệp đăng ký thành lập mới trong tháng 5/2021 tăng 8,1% về số lượng và tăng 33,6% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước[11]. Tính chung 5 tháng đầu năm 2021[12], tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động đạt 78,3 nghìn doanh nghiệp, tăng 11,9% so với cùng kỳ năm 2020; vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 14 tỷ đồng, tăng 20,9%.

Trong tháng 5/2021, cả nước có 11,6 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 150,6 nghìn tỷ đồng và số lao động đăng ký 72,2 nghìn người, giảm 22% về số doanh nghiệp, giảm 16,3% về vốn đăng ký và giảm 23,7% về số lao động so với tháng 4/2021. So với cùng kỳ năm trước, số doanh nghiệp tăng 8,1%; số vốn đăng ký tăng 33,6%; số lao động đăng ký giảm 21,1%.Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong tháng đạt 13 tỷ đồng, tăng 7,3% so với tháng trước và tăng 23,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong tháng, cả nước còn có 4.892 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 14,8% so với tháng trước và giảm 3,2% so với cùng kỳ năm trước; 3.400 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, giảm 26,1% và tăng 1,7%; 4.234 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, giảm 24,5% và tăng 37,3%; 1.279 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 17% và tăng 33%.

Tính chung 5 tháng đầu năm 2021, cả nước có gần 55,8 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 778,3 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 412,4 nghìn lao động, tăng 15,4% về số doanh nghiệp, tăng 39,5% về vốn đăng ký và tăng 1,3% về số lao động so với cùng kỳ năm trước. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong 5 tháng đạt 14 tỷ đồng, tăng 20,9% so với cùng kỳ năm trước. Nếu tính cả 975,1 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của gần 19,1 nghìn doanh nghiệp thay đổi tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 5 tháng đầu năm 2021 là 1.753,4 nghìn tỷ đồng, tăng 27,5% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, còn có gần 22,6 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 3,9% so với cùng kỳ năm trước, nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 5 tháng đầu năm 2021 lên 78,3 nghìn doanh nghiệp, trung bình mỗi tháng có gần 15,7 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.

Theo khu vực kinh tế, trong 5 tháng đầu năm nay có 892 doanh nghiệp thành lập mới thuộc khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, tăng 12,3% so với cùng kỳ năm 2020; gần 15,3 nghìn doanh nghiệp thuộc khu vực công nghiệp và xây dựng, tăng 10,2%; 39,6 nghìn doanh nghiệp thuộc khu vực dịch vụ, tăng 17,6%. Trong 5 tháng đầu năm 2021 số doanh nghiệp thành lập mới tăng ở tất cả các lĩnh vực, trừ sản xuất phân phối điện, nước, gas giảm 29,2% so với cùng kỳ năm trước; kinh doanh bất động sản tăng 57,1%; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 40,7%; giáo dục và đào tạo tăng 36,7%; vận tải kho bãi tăng 25,4%; tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 18,9%; thông tin và truyền thông tăng 16%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 15,7%; nghệ thuật, vui chơi giải trí tăng 15,2%; bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy tăng 13,5%; khai khoáng tăng 13,3%; khoa học, công nghệ, dịch vụ tư vấn, thiết kế, quảng cáo và chuyên môn khác tăng 12,9%; xây dựng tăng 10,6%; dịch vụ việc làm, du lịch, cho thuê máy móc thiết bị, đồ dùng và các dịch vụ hỗ trợ khác tăng 6,4%; dịch vụ lưu trú ăn uống tăng 4,6%.

Cũng trong 5 tháng đầu năm nay, có 59,8 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể và hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 23% so với cùng kỳ năm 2020, bao gồm: 31,8 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 22,3% so với cùng kỳ năm trước; 20 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 20,7%; 8 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 32,3%, trong đó có 7.153 doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng, tăng 31,8%; 86 doanh nghiệp có vốn trên 100 tỷ đồng, giảm 1,1%. Doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể tập trung chủ yếu ở các lĩnh vực: Bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy có 2.941 doanh nghiệp; công nghiệp chế biến, chế tạo có 921 doanh nghiệp; xây dựng có 724 doanh nghiệp; khoa học, công nghệ, dịch vụ tư vấn thiết kế, quảng cáo và chuyên môn khác có 503 doanh nghiệp; dịch vụ lưu trú và ăn uống có 455 doanh nghiệp; kinh doanh bất động sản có 412 doanh nghiệp; dịch vụ việc làm, du lịch, cho thuê máy móc thiết bị, đồ dùng, các dịch vụ hỗ trợ khác có 405 doanh nghiệp; vận tải, kho bãi có 370 doanh nghiệp; giáo dục, đào tạo có 276 doanh nghiệp; thông tin truyền thông có 267 doanh nghiệp; sản xuất phân phối điện, nước, gas 169 doanh nghiệp. Trung bình mỗi tháng có gần 12 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.

4. Đầu tư

Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước tháng 5/2021 tiếp tục được các Bộ, ngành và địa phương nỗ lực tập trung thực hiện trong bối cảnh dịch Covid -19 đang bùng phát lần thứ 4 tại nhiều tỉnh/thành phố nhằm thực hiện mục tiêu kép vừa phòng chống dịch bệnh vừa tập trung đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế.Vốn thực hiện của các dự án đầu tư nước ngoài trong 5 tháng đầu năm 2021 đạt 7,15 tỷ USD, tăng 6,7% so với cùng kỳ năm trước.

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng 5/2021 ước tính đạt 34,2 nghìn tỷ đồng, tăng 6,9% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn Trung ương quản lý 5,8 nghìn tỷ đồng, tăng 12,1%; vốn địa phương quản lý 28,4 nghìn tỷ đồng, tăng 5,9%. Tính chung 5 tháng đầu năm 2021, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 133,4 nghìn tỷ đồng, bằng 28,7% kế hoạch năm và tăng 14,2% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2020 bằng 22,8% và tăng 16,2%), cụ thể:

- Vốn Trung ương quản lý đạt 20,9 nghìn tỷ đồng, bằng 27,1% kế hoạch năm và tăng 21,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Bộ Giao thông Vận tải đạt 9.822 tỷ đồng, bằng 28,4% và tăng 72,9%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 1.106 tỷ đồng, bằng 25,8% và tăng 3,9%; Bộ Y tế 639 tỷ đồng, bằng 25,7% và giảm 52,3%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 381 tỷ đồng, bằng 22,4% và giảm 36,4%; Bộ Tài nguyên và Môi trường 256 tỷ đồng, bằng 24,9% và tăng 12,4%; Bộ Xây dựng 241 tỷ đồng, bằng 35,9% và tăng 139,8%; Bộ Công Thương 234 tỷ đồng, bằng 21,7% và tăng 121,6%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 182 tỷ đồng, bằng 21,9% và tăng 26,2%; Bộ Thông tin và Truyền thông 101 tỷ đồng, bằng 19,3% và tăng 155,1%; Bộ Khoa học và Công nghệ 86 tỷ đồng, bằng 27,6% và tăng 47,5%.

- Vốn địa phương quản lý đạt 112,5 nghìn tỷ đồng, bằng 29% kế hoạch năm và tăng 13% so với cùng kỳ năm 2020, trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 77,3 nghìn tỷ đồng, bằng 28,3% và tăng 16,7%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 29,8 nghìn tỷ đồng, bằng 29,5% và tăng 7%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 5,4 nghìn tỷ đồng, bằng 39,4% và giảm 2%. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước 5 tháng đầu năm 2021 của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như sau: Hà Nội đạt 15.249 tỷ đồng, bằng 30% kế hoạch năm và tăng 14,7% so với cùng kỳ năm trước; Thành phố Hồ Chí Minh 9.193 tỷ đồng, bằng 25,7% và tăng 22,7%; Quảng Ninh 5.709 tỷ đồng, bằng 32,3% và tăng 49,8%; Bà Rịa - Vũng Tàu 3.721 tỷ đồng, bằng 34,3% và tăng 30,3%; Thanh Hóa 3.635 tỷ đồng, bằng 39,4% và tăng 2,1%; Hải Phòng 2.737 tỷ đồng, bằng 20,3% và tăng 11,5%; Bình Dương 2.675 tỷ đồng, bằng 21,7% và giảm 13,3%; Đà Nẵng 2.405 tỷ đồng, bằng 33,3% và tăng 65,9%; Nghệ An 2.330 tỷ đồng, bằng 35,8% và giảm 15,9%.

Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến ngày 20/5/2021 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 14 tỷ USD, tăng 0,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó có 613 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 8,83 tỷ USD, giảm 49,4% về số dự án và tăng 18,6% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; có 342 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 3,86 tỷ USD, tăng 11,7%; có 1.422 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn 1,31 tỷ USD, giảm 56,3%. Trong tổng số lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài có 430 lượt góp vốn làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị vốn góp là 500,8 triệu USD và 992 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị 807,2 triệu USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 5 tháng đầu năm 2021 ước tính đạt 7,15 tỷ USD, tăng 6,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 5.172,4 triệu USD, chiếm 72,3% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 967,2 triệu USD, chiếm 13,5%; sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 509,6 triệu USD, chiếm 7,2%.

Trong 5 tháng đầu năm 2021, ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí được cấp phép mới đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất với số vốn đăng ký đạt gần 5 tỷ USD, chiếm 56,5% tổng số vốn đăng ký cấp mới; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 2,6 tỷ USD, chiếm 29,1%, các ngành còn lại đạt 1.265,7 triệu USD, chiếm 14,4%. Nếu tính cả vốn đăng ký bổ sung của các dự án đã cấp phép từ các năm trước thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 5,68 tỷ USD, chiếm 44,8% tổng số vốn; ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 5,33 tỷ USD, chiếm 42%; các ngành còn lại đạt 1,68 tỷ USD, chiếm 13,2%. Đối với hình thức góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 461,3 triệu USD, chiếm 35,3% tổng vốn; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 248,4 triệu USD, chiếm 19%; hoạt động bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy đạt 161,7 triệu USD, chiếm 12,3%; các ngành còn lại đạt 436,5 triệu USD, chiếm 33,4%.

Trong số 70 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam trong 5 tháng đầu năm 2021, Xin-ga-po là nhà đầu tư lớn nhất với 4.443,8 triệu USD, chiếm 50,3% tổng vốn đăng ký cấp mới; Nhật Bản 1.830 triệu USD, chiếm 20,7%; Đặc khu hành chính Hồng Công (TQ) 798,5 triệu USD, chiếm 9%; Trung Quốc 599,6 triệu USD, chiếm 6,8%; Hàn Quốc 447,9 triệu USD, chiếm 5,1%; Hoa Kỳ 148,8 triệu USD; chiếm 1,7%; Đài Loan 90,4 triệu USD, chiếm 1%.

Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong 5 tháng đầu năm 2021 có 21 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn đầu tư của phía Việt Nam là 143,5 triệu USD; có 9 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn tăng thêm đạt 403,2 triệu USD. Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và tăng thêm) 5 tháng đạt 546,7 triệu USD, tăng hơn 3 lần so với cùng kỳ năm trước, trong đó hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ đạt 270,8 triệu USD, chiếm 49,5% tổng vốn đầu tư; lĩnh vực bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác đạt 148,4 triệu USD, chiếm 27,1%; nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản đạt 76,9 triệu USD, chiếm 14,1%. Trong 5 tháng đầu năm có 15 quốc gia và vùng lãnh thổ nhận đầu tư của Việt Nam, trong đó Hoa Kỳ là nước dẫn đầu với 302,8 triệu USD, chiếm 55,4%; Cam-pu-chia 89,1 triệu USD, chiếm 16,3%; Ca-na-da 32,1 triệu USD, chiếm 5,9%; Pháp và Đức cùng đạt 32 triệu USD, cùng chiếm 5,8%.

5. Thu, chi ngân sách Nhà nước

Dịch Covid-19 bùng phát trở lại từ cuối tháng Tư, lây lan nhanh trong cộng đồng ở nhiều địa phương đã ảnh hưởng đến hoạt động thu, chi ngân sách Nhà nước. Tổng thu ngân sách Nhà nước trong 15 ngày đầu tháng Năm giảm 5 nghìn tỷ đồng so với cùng kỳ tháng trước. Chi ngân sách tập trung cho công tác phòng, chống dịch Covid-19, thực hiện theo dự toán và tiến độ triển khai nhiệm vụ chuyên môn của các đơn vị sử dụng ngân sách.

Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/5/2021 ước tính đạt 599,7 nghìn tỷ đồng, bằng 44,6% dự toán năm, trong đó thu nội địa đạt 496 nghìn tỷ đồng, bằng 43,8%; thu từ dầu thô 13,6 nghìn tỷ đồng, bằng 58,7%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 89,5 nghìn tỷ đồng, bằng 50,1%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước đạt 60,2 nghìn tỷ đồng, bằng 40,6% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 93 nghìn tỷ đồng, bằng 46,7%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước 118,3 nghìn tỷ đồng, bằng 49,8%; thu thuế thu nhập cá nhân 58 nghìn tỷ đồng, bằng 53,8%; thu thuế bảo vệ môi trường 20,8 nghìn tỷ đồng, bằng 32,2%; thu tiền sử dụng đất 59 nghìn tỷ đồng, bằng 53%.

Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/5/2021 ước tính đạt 517,5 nghìn tỷ đồng, bằng 30,7% dự toán năm, trong đó chi thường xuyên đạt 380,6 nghìn tỷ đồng, bằng 36,7%; chi đầu tư phát triển 93,7 nghìn tỷ đồng, bằng 19,6%; chi trả nợ lãi 42,4 nghìn tỷ đồng, bằng 38,5%.

6. Thương mại, giá cả, vận tải và du lịch

a) Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Dịch Covid-19 diễn biến phức tạp ở một số địa phương làm ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động thương mại, dịch vụ trong tháng, nhiều cơ sở lưu trú, ăn uống, lữ hành phải tạm đóng cửa. Ước tính tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Năm giảm 3,1% so với tháng trước và giảm 1% so với cùng kỳ năm trước.Tính chung 5 tháng đầu năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 7,6%.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Năm ước tính đạt 393,6 nghìn tỷ đồng, giảm 3,1% so với tháng trước và giảm 1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 318,2 nghìn tỷ đồng, giảm 1,7% và tăng 0,5%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 34,3 nghìn tỷ đồng, giảm 13,4% và giảm 11,8%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 387 tỷ đồng, giảm 53,5% và giảm 17,8%; doanh thu dịch vụ khác đạt 40,7 nghìn tỷ đồng, giảm 3,9% và giảm 2,7%.

Tính chung 5 tháng đầu năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 2.086,1 nghìn tỷ đồng, tăng 7,6% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 6,27% (cùng kỳ năm 2020 giảm 6,56%).

Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa 5 tháng đầu năm 2021ước tính đạt 1.670,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 80,1% tổng mức và tăng 7,8% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2020 tăng 3,1%). Trong đó, phương tiện đi lại tăng 11,3%; lương thực, thực phẩm tăng 9%; may mặc tăng 7,5%; vật phẩm văn hoá, giáo dục tăng 6,9%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 2%. Doanh thu bán lẻ hàng hóa trong 5 tháng đầu năm 2021 của một số thành phố như sau: Cần Thơ tăng 10,7%; Hải Phòng tăng 9,6%; Thành phố Hồ Chí Minh tăng 7,9%; Hà Nội tăng 7,6%.

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 5 tháng đầu năm ước tính đạt 196,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 9,4% tổng mức và tăng 4,6% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2020 giảm 20,7%). Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 5 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương như sau: Thanh Hóa tăng 8,7%; Cần Thơ tăng 8,6%; Bà Rịa - Vũng Tàu tăng 7,4%; Hải Phòng tăng 5,8%;
Thành phố Hồ Chí Minh giảm 0,6%; Hà Nội giảm 1,2%; Quảng Ninh giảm 5,2%; Bắc Ninh giảm 27%.

Doanh thu du lịch lữ hành 5 tháng đầu năm 2021 ước tính đạt 4,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,2% tổng mức và giảm 48,2% so với cùng kỳ năm trước do Việt Nam tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19, chưa mở cửa du lịch quốc tế đồng thời người dân vẫn lo lắng về dịch bệnh nên hạn chế đi du lịch. Một số địa phương có doanh thu du lịch lữ hành 5 tháng đầu năm 2021 giảm nhiều so với cùng kỳ năm trước: Khánh Hòa giảm 85,6%; Quảng Nam giảm 68,4%; Thừa Thiên - Huế giảm 48,8%; Thành phố Hồ Chí Minh giảm 46,7%;
Bắc Ninh giảm 38,1%; Bình Định giảm 33%; Hà Nội giảm 29,7%; Quảng Ninh giảm 16,6%; Hải Phòng giảm 14,3%; Cần Thơ giảm 13,6%.

Doanh thu dịch vụ khác 5 tháng đầu năm 2021 ước tính đạt 214,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,3% tổng mức và tăng 10,9% so với cùng kỳ năm 2020, trong đó doanh thu của Quảng Nam tăng 19,3%; Hà Nội và Bình Định cùng tăng 14,8%; Hưng Yên tăng 11,3%; Bình Dương tăng 8,5%; Hải Phòng tăng 7,1%; Thành phố Hồ Chí Minh tăng 6,9%; Cần Thơ tăng 2,6%; Khánh Hòa giảm 1,1%.

b) Xuất, nhập khẩu hàng hóa[13]

Hoạt động xuất, nhập khẩu tháng 5/2021 bị ảnh hưởng bởi làn sóng thứ tư của dịch Covid-19 bùng phát trở lại khiến hoạt động sản xuất của một số doanh nghiệp trong khu công nghiệp bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tuy nhiên, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa 5 tháng đầu năm 2021 ước tính vẫn tăng cao, đạt 262,25 tỷ USD, tăng 33,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 130,94 tỷ USD, tăng 30,7%; nhập khẩu hàng hóa đạt 131,31 tỷ USD, tăng 36,4%[14]. Tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu cao hơn kim ngạch xuất khẩu khiến cán cân thương mại hàng hóa 5 tháng đầu năm 2021 ước tính nhập siêu 369 triệu USD.

Xuất khẩu hàng hóa

Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa thực hiện tháng 4/2021 đạt 26,55 tỷ USD, cao hơn 1,05 tỷ USD so với số ước tính.

Ước tính tháng 5/2021, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 26 tỷ USD, giảm 2,1% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 6,96 tỷ USD, giảm 1,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 19,04 tỷ USD, giảm 2,4%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng Năm tăng 35,6%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 18,8%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 43%.

Tính chung 5 tháng đầu năm 2021, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước tính đạt 130,94 tỷ USD, tăng 30,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 33,06 tỷ USD, tăng 16,6%, chiếm 25,2% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 97,88 tỷ USD, tăng 36,3%, chiếm 74,8%.

Trong 5 thángđầu năm 2021 có 22 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 87,3% tổng kim ngạch xuất khẩu (6 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 63,8%), trong đó điện thoại và linh kiện có giá trị xuất khẩu lớn nhất đạt 21,9 tỷ USD, chiếm 16,7% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng 19,6% so với cùng kỳ năm trước; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 19,5 tỷ USD, tăng 26%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 14,9 tỷ USD, tăng 74,8%; hàng dệt may đạt 12,2 tỷ USD, tăng 15%; giày dép đạt 8,5 tỷ USD, tăng 26,4%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 6,6 tỷ USD, tăng 61,3%. Kim ngạch xuất khẩu của một số mặt hàng nông, thủy sản 5 tháng đầu năm nay tăng so với cùng kỳ năm trước: Thủy sản đạt 3,2 tỷ USD, tăng 12%; rau quả đạt 1,8 tỷ USD, tăng 18%; hạt điều đạt 1,3 tỷ USD, tăng 4,9% (lượng tăng 18,3%); cao su đạt 923 triệu USD, tăng 93,9% (lượng tăng 58,7%); sắn và các sản phẩm từ sắn đạt 533 triệu USD, tăng 27,5% (lượng tăng 15,6%); hạt tiêu đạt 387 triệu USD, tăng 25,2% (mặc dù lượng giảm 15,6% nhưng giá trị xuất khẩu vẫn tăng do giá xuất khẩu tăng); chè đạt 78 triệu USD, tăng 10,4% (lượng tăng 6,5%). Bên cạnh đó, có một số mặt hàng giảm: Gạo đạt 1,5 tỷ USD, giảm 0,7% (lượng giảm 11,3%); cà phê đạt 1,3 tỷ USD, giảm 5% (lượng giảm 11,4%).

Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu 5 tháng đầu năm 2021, nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản ước tính đạt 70,7 tỷ USD, tăng 33% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 54% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa (tăng 0,9 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước). Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp ước tính đạt 47,32 tỷ USD, tăng 33% và chiếm 36,1% (tăng 0,6 điểm phần trăm). Nhóm hàng nông, lâm sản đạt 9,69 tỷ USD, tăng 13,5% và chiếm 7,4% (giảm 1,1 điểm phần trăm). Nhóm hàng thủy sản đạt 3,24 tỷ USD, tăng 12% và chiếm 2,5% (giảm 0,4 điểm phần trăm).

Về thị trường xuất khẩu hàng hóa 5 tháng đầu năm 2021, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 37,6 tỷ USD, tăng 49,8% so với cùng kỳ năm trước; tiếp đến là Trung Quốc đạt 20,1 tỷ USD, tăng 26%; thị trường EU đạt 16,1 tỷ USD, tăng 20,8%; thị trường ASEAN đạt 11,5 tỷ USD, tăng 23,7%; Hàn Quốc đạt 8,9 tỷ USD, tăng 17,1%; Nhật Bản đạt 8,4 tỷ USD, tăng 7,7%.

Nhập khẩu hàng hóa

Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa thực hiện tháng 4/2021 đạt 27,78 tỷ USD, cao hơn 775 triệu USD so với số ước tính.

Ước tính tháng 5/2021, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 28 tỷ USD, tăng0,8% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 10,1 tỷ USD, tăng 2,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 17,9 tỷ USD, tăng 0,1%.
So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng Năm tăng 56,4%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 41,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 66,5%.

Tính chung 5 tháng đầu năm 2021, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước tính đạt 131,31 tỷ USD, tăng 36,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 45,8 tỷ USD, tăng 30,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 85,51 tỷ USD, tăng 39,9%.

Trong 5 tháng đầu năm 2021 có 27 mặt hàng nhập khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD, chiếm 84,4% tổng kim ngạch nhập khẩu (4 mặt hàng đạt trên 5 tỷ USD, chiếm 45,3%), trong đó: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 27,4 tỷ USD (chiếm 20,9% tổng kim ngạch nhập khẩu), tăng 24,7% so với cùng kỳ năm trước; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 18,7 tỷ USD, tăng 35,9%; điện thoại và linh kiện đạt 7,5 tỷ USD, tăng 51,3%; vải đạt 6 tỷ USD, tăng 33%; chất dẻo đạt gần 5 tỷ USD, tăng 50,6%; sắt thép đạt 4,6 tỷ USD, tăng 37,9%; kim loại thường đạt 3,6 tỷ USD, tăng 50,5%; ô tô đạt 3,6 tỷ USD, tăng 69,9%; sản phẩm chất dẻo đạt 3,4 tỷ USD, tăng 24,5%; hóa chất đạt 3,2 tỷ USD, tăng 60,1%; sản phẩm hóa chất đạt 3 tỷ USD, tăng 35,6%.

Về cơ cấu nhập khẩu hàng hóa 5 tháng đầu năm 2021, nhóm hàng tư liệu sản xuất ước tính đạt 123,15 tỷ USD, tăng 36,8% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 93,8% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa (tăng 0,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước), trong đó nhóm hàng máy móc thiết bị, dụng cụ, phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 58,8 tỷ USD, tăng 33% và chiếm 44,8% (giảm 1,1 điểm phần trăm); nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu đạt 64,35 tỷ USD, tăng 40,5% và chiếm 49% (tăng 1,4 điểm phần trăm). Nhóm hàng tiêu dùng ước tính đạt 8,16 tỷ USD, tăng 29,5% và chiếm 6,2% (giảm 0,3 điểm phần trăm).

Về thị trường nhập khẩu hàng hóa 5 tháng đầu năm nay, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 43,3 tỷ USD, tăng 52,8% so với cùng kỳ năm trước; tiếp theo là Hàn Quốc đạt 20,9 tỷ USD, tăng 20,5%; thị trường ASEAN đạt 18,1 tỷ USD, tăng 54,2%; Nhật Bản đạt 8,9 tỷ USD, tăng 14,8%; thị trường EU đạt 6,7 tỷ USD, tăng 16,8%; Hoa Kỳ đạt 6,4 tỷ USD, tăng 6,8%.

Cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng 4/2021 nhập siêu 1,23 tỷ USD[15]; 4 tháng xuất siêu 1,63 tỷ USD; tháng Năm ước tính nhập siêu 2 tỷ USD. Ước tính 5 tháng đầu năm 2021 nhập siêu 369 triệu USD[16], trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 12,74 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 12,37 tỷ USD.

c) Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ

Giá nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào tăng ảnh hưởng đến chi phí sản xuất làm cho giá hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng tăng; giá xăng dầu tăng theo giá thế giới; giá điện, nước sinh hoạt tăng theo nhu cầu tiêu dùng là những nguyên nhân chính làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 5/2021 tăng 0,16% so với tháng trước, tăng 1,43% so với tháng 12/2020 và tăng 2,9% so với tháng 5/2020. Bình quân 5 tháng đầu năm 2021, CPI tăng 1,29% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng thấp nhất kể từ năm 2016[17]; lạm phát cơ bản 5 tháng tăng 0,82%.

Trong mức tăng 0,16% của chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 5/2021 so với tháng trước có 8 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng và 3 nhóm hàng có chỉ số giá giảm. Nhóm giao thông có mức tăng cao nhất với 0,76% (làm CPI chung tăng 0,07 điểm phần trăm) do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá xăng, dầu vào ngày 27/4/2021 và ngày 12/5/2021 làm chỉ số giá xăng tăng 2,12%, dầu diezentăng 2,8%. Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,4% (làm CPI chung tăng 0,08 điểm phần trăm) do giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 2,93% tăng theo giá nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào[18]; bên cạnh đó chỉ số giá điện, nước sinh hoạt lần lượt tăng 2,54% và 1,27% do nhu cầu tiêu dùng tăng; giá dầu hỏa tăng 5,07%. Nhóm đồ uống và thuốc lá và nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình cùng tăng 0,09% chủ yếu do thời tiết nắng nóng khi vào hè làm nhu cầu giải khát và tiêu dùng các mặt hàng như tủ lạnh, máy điều hòa nhiệt độ, quạt điện tăng. Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,04% (làm CPI chung tăng 0,01 điểm phần trăm), trong đó: Lương thực giảm 0,09%[19]; thực phẩm giảm 0,05%[20]; riêng ăn uống ngoài gia đình tăng 0,31% chủ yếu do trong tháng có kỳ nghỉ Lễ 30/4-1/5. Nhóm giáo dục tăng 0,03%, trong đó giá văn phòng phẩm tăng 0,25%. Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,01% chủ yếu do dịch Covid-19 diễn biến phức tạp lan rộng tại nhiều địa phương, người dân tăng mua các loại thuốc tăng cường hệ miễn dịch làm giá các loại thuốc tăng 0,03%. Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,06%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm gồm: Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch chịu ảnh hưởng của dịch Covid-19 giảm 0,23% chủ yếu do giá dịch vụ du lịch trọn gói giảm 0,7%, bên cạnh đó, giá nhóm cây, hoa cảnh giảm 2,05% do thời tiết thuận lợi, đang rộ mùa. Nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,15% chủ yếu do các doanh nghiệp đẩy mạnh chương trình khuyến mại giảm giá đối với các sản phẩm điện thoại mẫu mã cũ. Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép giảm 0,01%.

Lạm phát cơ bản tháng 5/2021 tăng 0,15% so với tháng trước và tăng 1,13% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân 5 tháng đầu năm nay tăng 0,82% so với cùng kỳ năm 2020.

Giá vàng trong nước biến động cùng chiều với giá vàng thế giới. Bình quân giá vàng thế giới đến ngày 25/5/2021 tăng 4,38% so với tháng 4/2021.Các đồng tiền kỹ thuật số sụt giá mạnh, dòng tiền có xu hướng đổ vào thị trường vàng; đồng USD và lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm tiếp tục giảm là những yếu tố tạo đà cho vàng tăng giá. Bên cạnh đó, giới đầu tư lo ngại về tình hình tài chính của Mỹ và các nước châu Âu cũng làm tăng tính hấp dẫn của vàng. Trong nước, chỉ số giá vàng tháng 5/2021 tăng 1,68% so với tháng trước; giảm 0,88% so với tháng 12/2020 và tăng 13,02% so với cùng kỳ năm trước.

Đồng đô la Mỹ trên thị trường thế giới giảm do giới đầu tư lo ngại về lạm phát của Mỹ gia tăng. Trong nước, lượng dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam dồi dào đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ của các doanh nghiệp nhập khẩu. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 5/2021 giảm 0,21% so với tháng trước; giảm 0,02% so với tháng 12/2020 và giảm 1,15% so với cùng kỳ năm trước.

d) Vận tải hành khách và hàng hóa

Trong tháng Năm, hoạt động vận tải, đặc biệt là vận tải hành khách gặp nhiều khó khăn khi dịch Covid-19 bùng phát tại nhiều địa phương trên địa bàn cả nước. Vận tải hành khách tháng Năm giảm 14,9% về lượng hành khách vận chuyển và giảm 15,9% về lượng hành khách luân chuyển so với tháng trước; vận tải hàng hóa chỉ tăng 2,8% về sản lượng vận chuyển và tăng 2,7% về sản lượng luân chuyển. Tính chung 5 tháng đầu năm 2021, vận chuyển hành khách tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước, luân chuyển hành khách tăng nhẹ 0,1% và vận chuyển hàng hóa tăng 10,5%, luân chuyển hàng hóa tăng 11,2%.

Vận tải hành khách tháng 5/2021 ước tính đạt 287,8 triệu lượt khách vận chuyển, giảm 14,9% so với tháng trước và luân chuyển 13 tỷ lượt khách.km, giảm 15,9%. Tính chung 5 tháng đầu năm 2021, vận tải hành khách đạt 1.594,9 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2020 giảm 26,8%) và luân chuyển 69,8 tỷ lượt khách.km, tăng 0,1% (cùng kỳ năm trước giảm 31,7%), trong đó vận tải trong nước đạt 1.594,8 triệu lượt khách, tăng 4,4% và 69,3 tỷ lượt khách.km, tăng 14,7%; vận tải ngoài nước đạt 90 nghìn lượt khách, giảm 96,7% và 467,4 triệu lượt khách.km, giảm 95%. Xét theo ngành đường, vận tải hành khách đường bộ 5 tháng đạt 1.476,4 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước và 54,3 tỷ lượt khách.km luân chuyển, tăng 7,1%[21]; đường thủy nội địa đạt 99,5 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 13,8%và luân chuyển đạt 1,8 tỷ lượt khách.km, tăng 12,5%[22]; hàng không đạt 14,7 triệu lượt khách, tăng 16,9% và luân chuyển 13 tỷ lượt khách.km, giảm 21,1%[23]; đường biển đạt 3,1 triệu lượt khách, tăng 17,8% và 174,8 triệu lượt khách.km, tăng 21%[24]; đường sắt đạt 1,2 triệu lượt khách, giảm 34% và 481,2 triệu lượt khách.km, giảm 41,3%[25].

Vận tải hàng hóa tháng 5/2021 ước tính đạt 139,4 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 2,8% so với tháng trước và luân chuyển 30,1 tỷ tấn.km, tăng 2,7%. Tính chung 5 tháng đầu năm 2021, vận tải hàng hóa đạt 739 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2020 giảm 8%)luân chuyển 146,2 tỷ tấn.km, tăng 11,2% (cùng kỳ năm trước giảm 7,5%), trong đó vận tảitrong nước đạt 726,2 triệu tấn, tăng 11% và 85,5 tỷ tấn.km, tăng 26%; vận tải ngoài nước đạt 12,8 triệu tấn, giảm 10,8% và 60,7 tỷ tấn.km, giảm 4,5%. Xét theo ngành vận tải, hầu hết các ngành đường trong 5 tháng đầu năm nay đều tăng so với cùng kỳ năm trước, trong đó vận tải hàng hóa đường bộđạt 567,1 triệu tấn vận chuyển, tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước và 41,6 tỷ tấn.km luân chuyển, tăng 14,7%; đường thủy nội địa đạt 134,8 triệu tấn, tăng 14,4% và 31,7 tỷ tấn.km, tăng 23,5%; đường biển đạt 34,5 triệu tấn, tăng 9,7% và 69,8 tỷ tấn.km, tăng 5,3%;đường sắt đạt 2,3 triệu tấn, tăng 11,7% và 1,5 tỷ tấn.km, tăng 7,3%; riêng đường hàng không mặc dù sản lượng vận chuyển đạt 171,5 nghìn tấn, tăng 40,1% so với cùng kỳ năm trước nhưng luân chuyển chỉ đạt 1,6 tỷ tấn.km, giảm 11,9%.

đ) Khách quốc tế đến Việt Nam

Khách quốc tế đến nước ta tháng 5/2021 đạt 13,4 nghìn lượt người, giảm 30,8% so với tháng trước và giảm 40,6% so với cùng kỳ năm trước do Việt Nam tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19, chưa mở cửa du lịch quốc tế nên lượng khách đến chủ yếu là chuyên gia, lao động kỹ thuật nước ngoài làm việc tại các dự án ở Việt Nam và lái xe vận chuyển hàng hóa tại các cửa khẩu đường bộ. Tính chung 5 tháng đầu năm 2021, khách quốc tế đến nước ta đạt 81 nghìn lượt người, giảm 97,8% so với cùng kỳ năm trước.

Khách quốc tế đến nước ta trong tháng 5/2021 ước tính đạt 13,4 nghìn lượt người, giảm 30,8% so với tháng trước và giảm 40,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó riêng khách đến từ Trung Quốc Hàn Quốc chiếm 61% lượng khách đến trong tháng. Tính chung 5 tháng đầu năm 2021, khách quốc tế đến nước ta ước tính đạt 81 nghìn lượt người, giảm 97,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến bằng đường hàng không đạt 50,5 nghìn lượt người, chiếm 62,4% lượng khách quốc tế đến Việt Nam, giảm 98,3%; bằng đường bộ đạt 30,3 nghìn lượt người, chiếm 37,4% và giảm 94,5%; bằng đường biển đạt 193 lượt người, chiếm 0,2% và giảm 99,9%.

Trong 5 tháng đầu năm nay, khách đến từ châu Á đạt 71,6 nghìn lượt người, chiếm 88,4% tổng số khách quốc tế đến nước ta, giảm 97,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khách đến từ các thị trường chính đều giảm mạnh: Trung Quốc đạt gần 34,1 nghìn lượt người, giảm 96,3% so với cùng kỳ năm trước; Hàn Quốc 16,9 nghìn lượt người, giảm 97,9%; Đài Loan 6,2 nghìn lượt người, giảm 96,8%; Lào 4,3 nghìn lượt người, giảm 88,5%; Nhật Bản đạt gần 4,2 nghìn lượt người, giảm 97,9%. Khách đến từ châu Âu trong 5 tháng đầu năm 2021 ước tính đạt 6,1 nghìn lượt người, giảm 99,1% so với cùng kỳ năm trước; khách đến từ châu Mỹ đạt gần 2,2 nghìn lượt người, giảm 99,1%; khách đến từ châu Úc đạt 590 lượt người, giảm 99,4%; khách đến từ châu Phi đạt 590 lượt người, giảm 95,1%.

7. Một số tình hình xã hội

a) Đời sống dân cư

Dịch Covid-19 tái bùng phát trở lại cuối tháng Tư đã ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống nhân dân, trước tình hình đó Đảng và Nhà nước có những chỉ đạo kịp thời nhằm đảm bảo thực hiện “mục tiêu kép” vừa chống dịch, vừa phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an sinh xã hội và đời sống nhân dân, đặc biệt các hỗ trợ người dân các địa phương chịu ảnh hưởng trực tiếp từ dịch bệnh. Kết quả của các chính sách an sinh xã hội và giải pháp hỗ trợ các hộ cận nghèo của Chính phủ tiếp tục phát huy hiệu quả, tháng 5/2021 là tháng thứ 11 liên tiếp không phát sinh thiếu đói trên phạm vi cả nước. 

b) Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm

Theo báo cáo của Bộ Y tế, trong tháng (19/4-18/5/2021), cả nước có 4.110 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; 12.224 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng (3 trường hợp tử vong); 104 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do vi rút; 5 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu (1 trường hợp tử vong); 62 trường hợp sốt phát ban nghi sởi, trong đó có 6 trường hợp dương tính. Tính chung 5 tháng đầu năm 2021, cả nước có 23.820 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (5 trường hợp tử vong); 32.800 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng (7 trường hợp tử vong); 249 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do vi rút; 13 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu (2 trường hợp tử vong); 235 trường hợp sốt phát ban nghi sởi, trong đó có 27 trường hợp dương tính.

Dịch Covid-19 trên thế giới vẫn diễn biến phức tạp[26]. 5 quốc gia có số ca mắc Covid-19 nhiều nhất thế giới là Mỹ, Ấn Độ, Bra-xin, Pháp và Thổ Nhĩ Kỳ. Tại Việt Nam, tình hình dịch bệnh phức tạp nhưng vẫn nằm trong tầm kiểm soát, chúng ta vẫn khống chế được tình hình dịch bệnh, đảm bảo điều kiện an toàn để tổ chức tốt cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026. Tính đến 16h00 ngày 28/5/2021, Việt Nam có 6.396 trường hợp mắc, 2.853 trường hợp đã được chữa khỏi (47 trường hợp tử vong).

Tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống tính đến thời điểm 18/5/2021 là 211.634 người; số người đã chuyển sang giai đoạn AIDS là 90.206 người và số người tử vong do HIV/AIDS của cả nước tính đến thời điểm trên là 99.306 người.

Về ngộ độc thực phẩm, trong tháng Năm xảy ra 10 vụ với 329 người bị ngộ độc (1 người tử vong). Tính chung 5 tháng đầu năm, cả nước xảy ra 34 vụ với 802 người bị ngộ độc (4 người tử vong).

c) Tai nạn giao thông[27]

Trong tháng Năm (từ 15/4-14/5/2021), trên địa bàn cả nước xảy ra 962 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 626 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 336 vụ va chạm giao thông, làm 491 người chết, 318 người bị thương và 357 người bị thương nhẹ. So với tháng trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 5,1% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 3,4% và số vụ va chạm giao thông giảm 8,2%); số người chết giảm 0,4% và số người bị thương giảm 6,2% và số người bị thương nhẹ giảm 8%. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông tháng Năm giảm 3,6% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên tăng 0,8% và số vụ va chạm giao thông giảm 10,9%); số người chết giảm 7,2%; số người bị thương tăng 12,4% và số người bị thương nhẹ giảm 5,3%.

Tính chung 5 tháng đầu năm 2021, trên địa bàn cả nước xảy ra 5.182 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 3.348 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 1.834 vụ va chạm giao thông, làm 2.656 người chết, 1.779 người bị thương và 2.009 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông trong 5 tháng đầu năm nay giảm 5,9% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên tăng 6,6%; số vụ va chạm giao thông giảm 22,5%); số người chết giảm 0,4%; số người bị thương tăng 15% và số người bị thương nhẹ giảm 16,9%. Bình quân 1 ngày trong 5 tháng đầu năm 2021, trên địa bàn cả nước xảy ra 34 vụ tai nạn giao thông, gồm 22 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 12 vụ va chạm giao thông, làm 18 người chết, 12 người bị thương và 13 người bị thương nhẹ.

d) Thiệt hại do thiên tai

Thiên tai xảy ra trong tháng (từ ngày 19/4-18/5/2021) chủ yếu là mưa lớn gây ngập, giông lốc, sét đánh, hạn hán nắng nóng và sạt lở làm 16 người chết và mất tích; 30 người bị thương; 25,9 nghìn ha lúa và 2,6 nghìn ha hoa màu bị hư hỏng; 106 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và 3,9 nghìn ngôi nhà bị ngập hư hại, thiệt hại ước tính 225,8 tỷ đồng, giảm 84,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 5 tháng đầu năm nay, thiên tai làm 23 người chết và mất tích, 37 người bị thương; 136 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và 5,1 nghìn ngôi nhà bị ngập hư hại; 5,5 nghìn con gia súc và gia cầm bị chết; 26,6 nghìn ha lúa và 3,2 nghìn ha hoa màu bị hư hỏng; tổng giá trị thiệt hại về tài sản ước tính 312,2 tỷ đồng, giảm 92,1% so với cùng kỳ năm trước.

đ) Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ

Trong tháng 5/2021, cơ quan chức năng đã phát hiện 1.163 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 986 vụ với tổng số tiền phạt 20,8 tỷ đồng. Tính chung 5 tháng đầu năm nay đã phát hiện 7.615 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 6.656 vụ với tổng số tiền phạt gần 93,8 tỷ đồng.

Trong tháng[28], cả nước xảy ra 178 vụ cháy, nổ, làm 14 người chết và 27 người bị thương, thiệt hại ước tính 28,9 tỷ đồng. Tính chung 5 tháng đầu năm 2021, trên địa bàn cả nước xảy ra 966 vụ cháy, nổ, làm 48 người chết và 75 người bị thương, thiệt hại ước tính 266,8 tỷ đồng./.



[1]Năng suất lúa đông xuân năm 2020 của tỉnh Tiền Giang chỉ đạt 64,9 tạ/ha do bị ảnh hưởng bởi nhiễm mặn

[2] Hà Nội, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Hải Dương, Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang,Yên Bái, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Điện Biên, Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Đắk Lắk, Kon Tum, Khánh Hòa, Bình Phước, Hậu Giang, Bạc Liêu.

[3] Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Yên Bái, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Kon Tum.

[4] Tính từ 16/4/2021 đến 15/5/2021

[5] Giá cá tra nguyên liệu loại 800 g/con đến 900 g/con ổn định, dao động tử 21.500 đến 21.700 đồng/kg, tăng hơn 3000 đồng/kg so với cùng kỳ năm trước.

[6] Giá tôm thẻ tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long cỡ 100 con/kg, giá từ 88.000 - 94.000 đồng/kg, tăng 3000-4000 đồng/kg, cỡ 80 con/kg, giá từ 98.000-104.000 đồng/kg, tăng 4000-5000 đồng/kgso với cùng kỳ năm trước.

[7] Giá tôm sú tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long loại 20 con/kg ướp đá ổn định dao động từ 220.000 - 250.000 đồng/kg.

[8] Tháng 5/2020 giảm 0,4% so với cùng kỳ năm trước.

[9]Trong 5 tháng đầu năm 2020, chỉ số IIP ngành sản xuất phân phối điện tháng 5/2020 giảm 1% so với cùng kỳ năm trước do tác động của dịch Covid-19.

[10]Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Báo cáo nhận ngày 25/5/2021).

[11]Nếu tính thêm hai doanh nghiệp đăng ký thành lập mới thuộc lĩnh vực thông tin và truyền thông tại Thành phố Hồ Chí Minh có số vốn đăng ký tăng đột biến 525 nghìn tỷ đồng thì số vốn đăng ký trong tháng 5/2021 tăng 499,4% so với cùng kỳ năm trước (hai doanh nghiệp này đăng ký thành lập ngày 20/5/2021, có chung nhau một đại diện theo pháp luật và đang trong quá trình hoàn tất việc góp vốn).

[12]Khôngbao gồm hai doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tại Thành phố Hồ Chí Minh trong tháng 5/2021 nói trên.

[13] Số liệu tháng 5/2021 do Tổ liên ngành gồm Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Tổng cục Hải quan và Tổng cục Thống kê họp ước tính căn cứ trên số liệu kim ngạch xuất, nhập khẩu tính đến ngày 27/5/2021 của Tổng cục Hải quan kết hợp với thông tin thị trường, tỷ trọng và xu hướng xuất, nhập khẩu các mặt hàng. Tổng cục Thống kê nhận được và cập nhật báo cáo vào ngày 28/5/2021.

[14] Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa 5 tháng đầu năm 2020 đạt 196,47 tỷ USD, giảm 3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 100,17 tỷ USD, giảm0,9%; nhập khẩu đạt 96,3 tỷ USD, giảm5%.

[15] Tháng Tư ước tính nhập siêu 1,5 tỷ USD.

[16]Trong đó, 5 tháng đầu năm 2021 xuất siêu sang EU đạt 9,4 tỷ USD, tăng 23,8% so với cùng kỳ năm trước; nhập siêu từ Trung Quốc 23,2 tỷ USD, tăng 87,3%; nhập siêu từ Hàn Quốc 12 tỷ USD, tăng 23,1%; nhập siêu từ ASEAN 6,6 tỷ USD, tăng 171,6%.

[17] Tốc độ tăng CPI bình quân 5 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước các năm 2016-2021 lần lượt là: tăng 1,59%; tăng 4,47%; tăng 3,01%; tăng 2,74%; tăng 4,39%; tăng 1,29%.

[18]Giá nguyên liệu tăng cao trên thị trường thế giới, cùng với nhu cầu xây dựng trong nước tăng làm cho giá nguyên liệu đầu vào sản xuất sản phẩm gang, sắt, thép tháng 5/2021 tăng 4,83% so với tháng trước và tăng 7,26% so với tháng 5/2020, bình quân 5 tháng đầu năm 2021 tăng 7,76% so với cùng kỳ năm trước.

[19]Giá gạo giảm 0,19% do nguồn cung dồi dào tại các tỉnh phía Nam và giảm theo giá gạo xuất khẩu.

[20]Giá thịt lợn giảm 1,61% (làm CPI chung giảm 0,05 điểm phần trăm) do dịch tả lợn châu Phi được kiểm soát tốt, nguồn cung thịt lợn đảm bảo; giá các sản phẩm chế biến từ thịt lợn giảm (giá thịt quay, giò, chả giảm 0,58%; mỡ động vật giảm 3,45%); giá thịt gia cầm giảm 0,1%. Ở chiều ngược lại,giá thủy sản tươi sống tăng 0,07%; giá thủy hải sản chế biến tăng 0,03%; giá thịt gà tăng 0,09%; giá rau tươi, khô và chế biến tăng 2,62%.

[21] Đường bộ 5 tháng đầu năm 2020 vận chuyển giảm 28,1% và luân chuyển giảm 25,6%.

[22] Đường thủy nội địa 5 tháng đầu năm 2020 vận chuyển tăng 8,8 % và luân chuyển giảm 14%.

[23] Hàng không 5 tháng đầu năm 2020 vận chuyển giảm 42,8% và luân chuyển giảm 46,3%.

[24]Đường biển 5 tháng đầu năm 2020 vận chuyển giảm 10,3% và luân chuyển giảm 24,3%.

[25] Đường sắt5 tháng đầu năm 2020 vận chuyển giảm 48,2% và luân chuyển giảm 38,8%.

[26] Tính đến 16h00 ngày 28/5/2021 trên thế giới có 169.671,4 nghìn trường hợp mắc Covid-19 (3.526,3nghìn trường hợptử vong).

[27]Theo báo cáo nhanh từ Văn phòng Bộ Công an và Cục Hàng hải (Bộ Giao thông vận tải).

[28]Theo báo cáo nhanh từ Bộ Công anngày 23/5/2021.


Các tin khác
© Copyright 2012 CỤC THỐNG KÊ TỈNH LÂM ĐỒNG
10 Đường 3 Tháng 4, Phường 3, TP. Đà Lạt