Tình hình kinh tế - xã hội
Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Lâm Đồng ước tháng 6, 6 tháng đầu năm 2021

          Tình hình kinh tế - xã hội trong 6 tháng đầu năm 2021 thế giới diễn ra trong bối cảnh tình hình dịch bệnh Covid -19 diễn biến phức tạp, bùng phát mạnh ở các quốc gia và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, kinh tế thế giới có dấu hiệu phục hồi sau nỗ lực nghiên cứu và triển khai tiêm chủng vắc xin phòng dịch Covid-19 ở nhiều nước trên thế giới, giá cả hàng hóa thế giới có xu hướng tăng.

          Trong nước, kinh tế vĩ mô nước ta tiếp tục ổn định, thời tiết những tháng đầu năm tương đối thuận lợi, dịch tả lợn châu Phi được kiểm soát tốt là những điều kiện thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, trong 6 tháng đầu năm 2021 dịch Covid-19 bùng phát ở một số tỉnh, thành phố, số ca mắc tăng cao và diễn biến phức tạp đã đặt ra không ít thách thức trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội.

          Trước những thuận lợi và khó khăn đan xen, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngay từ đầu năm đã chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương thực hiện đồng bộ, linh hoạt, hiệu quả “mục tiêu kép” vừa phòng, chống dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe nhân dân, vừa phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, nỗ lực phấn đấu cao nhất thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2021.

         Trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, nhìn chung tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2021 vẫn duy trì ổn định, đạt được kết quả tích cực trên một số lĩnh vực. Tuy nhiên, do ảnh hưởng tiêu cực của dịch bệnh Covid-19, tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng chậm. Hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhất là các ngành dịch vụ lưu trú, ăn uống, vận tải và du lịch tiếp tục bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh. Tình hình vi phạm lâm luật diễn biến phức tạp ở một số địa phương, trật tự xây dựng chưa được thực hiện nghiêm tại một số khu vực; một số dự án đầu tư ngoài ngân sách chậm triển khai thực hiện, vi phạm các quy định về đầu tư, xây dựng trong quá trình thực hiện. Đời sống của nhân dân vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa vẫn còn nhiều khó khăn. Để thực hiện hiệu quả “mục tiêu kép”, vừa quyết liệt phòng, chống dịch Covid-19, vừa phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an sinh xã hội và đời sống nhân dân, toàn tỉnh tập trung mọi nguồn lực đẩy mạnh phát triển kinh tế nhanh, toàn diện bền vững; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

           1. Tăng trưởng GRDP 6 tháng đầu năm 2021

        Trong những tháng đầu năm 2021 nền kinh tế cả nước nói chung và của Lâm Đồng nói riêng tăng trưởng theo xu hướng tích cực, kinh tế vĩ mô tiếp tục được duy trì ổn định; lạm phát được kiểm soát; thị trường tiền tệ, ngoại hối ổn định, cơ cấu tín dụng chuyển dịch theo hướng tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đó, nhiều khó khăn, thách thức và còn những tồn tại, hạn chế nhất là trước ảnh hưởng của dịch Covid-19 đang tiếp tục diễn biến phức tạp, tiến độ giải ngân vốn đầu tư công chậm; thu hút FDI giảm; hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và người dân còn gặp nhiều khó khăn …

        Tổng sản phẩm (GRDP) trên địa bàn 6 tháng đầu năm 2021 theo giá so sánh 2010 đạt 19.758,6 tỷ đồng, tăng 5% so với cùng kỳ, là mức tăng trưởng thấp so với dự báo. Kinh tế - xã hội cả nước nói chung và Lâm Đồng nói riêng diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới tăng trưởng chậm nhưng còn nhiều rủi ro, thách thức, nhất là diễn biến phức tạp của dịch Covid-19; tiêm chủng vắc-xin chưa đồng đều giữa các quốc gia và nền kinh tế; ảnh hưởng từ bất ổn thị trường tài chính quốc tế, an ninh, đối ngoại.

Tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP)

6 tháng đầu các năm 2020, 2021

 

 

Tốc độ tăng so với năm trước (%)

 

 

6 tháng năm 2020

6 tháng năm 2021

Tổng số

99,20

105,00

- Khu vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản

103,68

104,42

- Khu vực công nghiệp - xây dựng

97,46

107,56

      + Trong đó: Công nghiệp

91,71

106,72

- Khu vực dịch vụ

96,82

104,18

- Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm

108,50

104,82

 

          - Khu vực I đạt 4.616,6 tỷ đồng, tăng 4,42%, đóng góp 1,04 điểm phần trăm trong mức tăng chung của GRDP. Những năm gần đây, Lâm Đồng trở thành điểm sáng của cả nước về phát triển nông nghiệp. Việc đẩy mạnh các mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp được xem là một trong những động lực quan trọng dẫn tới thành công cho ngành nông nghiệp địa phương. Bên cạnh yếu tố đầu ra và giá cả, khi tham gia mô hình liên kết, các hộ nông dân được doanh nghiệp, hợp tác xã hỗ trợ phân bón, giống, kỹ thuật, qua đó tích lỹ được nhiều kiến thức khoa học và kinh nghiệm canh tác, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất theo hướng bền vững; các mô hình liên kết chủ yếu tập trung vào trồng, chế biến, tiêu thụ rau, hoa, cà phê, chè, gia súc, gia cầm vì đây là những mặt hàng chủ lực, thế mạnh của địa phương. Bên cạnh việc đẩy mạnh xây dựng hợp tác xã kiểu mới, tỉnh Lâm Đồng khuyến khích, vận động người dân, hợp tác xã, doanh nghiệp hình thành các chuỗi liên kết. Các mô hình liên kết là động lực quan trọng thúc đẩy tái cơ cấu ngành nông nghiệp, phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thông minh, đưa nông nghiệp Lâm Đồng tham gia hiệu quả vào chuỗi giá trị nông nghiệp.

          Bên cạnh đó, do tác động của đại dịch Covid-19, tình hình tiêu thụ các sản phẩm hoa Đà Lạt gặp rất nhiều khó khăn, nhu cầu tiêu thụ hoa trong cả nước giảm mạnh, dịch vụ vận tải bị hạn chế, trong khi các thị trường như nhà hàng, khách sạn... giảm lượng tiêu thụ dẫn đến gặp khó trong tiêu thụ sản phẩm … Tuy nhiên, dịch Covid-19 là thách thức nhưng đồng thời cũng là cơ hội cho nông dân và doanh nghiệp sản xuất và chế biến các mặt hàng nông sản; việc các hộ nông dân tham gia các chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ càng có cơ hội để đảm bảo duy trì tốt việc canh tác, nhiều doanh nghiệp đảm bảo duy trì việc sản xuất kinh doanh và chế biến sản phẩm nông sản đảm bảo đầu ra sản phẩm. Có thể thấy, trong diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, doanh nghiệp và nông dân tỉnh Lâm Đồng đã phát huy tốt ưu điểm từ các chuỗi liên kết sản xuất, ổn định chế biến các mặt hàng nông sản để đáp ứng cho nhu cầu của thị trường. Đây được xem là một hướng đi bền vững cần được khuyến khích để phát triển và nhân rộng cách làm trong thời gian tới.

          - Khu vực II đạt 4.335,6 tỷ đồng, tăng 7,56%, đóng góp 1,62 điểm phần trăm trong mức tăng chung của GRDP; trong đó ngành công nghiệp đạt 2.464,3 tỷ đồng, chiếm 56,84% trong KVII, tăng 6,72%, với mức đóng góp 0,82 điểm phần trăm trong mức tăng chung của GRDP. Trong những tháng đầu năm 2021, nguồn nguyên liệu đầu vào cho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo như chè, cà phê, tơ, rau, quả … ổn định cung ứng đủ cho sản xuất và xuất khẩu; thời tiết thuận lợi tạo điều kiện cho các nhà máy thủy điện trên địa bàn duy trì công suất chạy máy phát điện cung cấp điện cho hệ thống điện quốc gia; đồng thời đảm bảo yêu cầu an toàn cho hệ thống hồ, đập thủy điện, sản lượng điện sản xuất theo kế hoạch điều động của Trung tâm điều động điện quốc gia …Tuy nhiên, diễn biến tình hình dịch Covid - 19 đã ảnh hưởng đến tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn, thị trường nhập khẩu nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm chủ yếu từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản.

          - Khu vực III đạt 9.523,8 tỷ đồng, tăng 4,18% so với cùng kỳ, đóng góp 2,03 điểm phần trăm trong mức tăng chung của GRDP. Trước ảnh hưởng của dịch Covid-19 đang tiếp tục diễn biến phức tạp tại nhiều địa phương trên cả nước, đã làm ảnh hưởng tới hoạt động thương mại, nhất là đối với ngành vận tải và du lịch. Đồng hành cùng với việc thực hiện nhiệm vụ kép, ngành du lịch Lâm Đồng nghiêm túc chỉ đạo và triển khai các quy định phòng, chống dịch Covid-19 đến tất cả các cơ sở du lịch trên toàn tỉnh. Đặc biệt, từ đầu năm 2021 đến nay, Lâm Đồng đã có nhiều văn bản về quản lý du lịch nhằm giúp cho công tác quản lý và hoạt động du lịch ngày càng chuyên nghiệp, đảm bảo an ninh, an toàn cho du khách, ... Trước những diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, nhiều mặt hàng nông sản Lâm Đồng đang trong giai đoạn thu hoạch có nguy cơ ùn ứ, khó tiêu thụ, giảm 30 - 40% tại các chợ đầu mối, chợ truyền thống; giảm 50% tại các trung tâm thương mại, khách sạn, nhà hàng, nhiều chương trình lễ hội, hội nghị trong nước bị hủy ...

          - Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm đạt 1.282,6 tỷ đồng, tăng 4,82% so với cùng kỳ, với mức đóng góp 0,31 điểm phần trăm trong mức tăng GRDP. Trước diễn biến phức tạp của dịch bệnh COVID-19 vào cuối tháng 4 và đầu tháng 5 năm 2021; đồng thời thực hiện Nghị định số 52/2021/NĐ-CP của Chính phủ về gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất, ngành Thuế tỉnh Lâm Đồng tiến hành rà soát và điều chỉnh một số nhiệm vụ, giải pháp thu ngân sách nhà nước trong điều kiện tái bùng phát dịch COVID-19, nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu kép vừa phòng chống dịch, vừa thực hiện nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước. Để đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời nộp vào ngân sách nhà nước, ngành Thuế Lâm Đồng tiếp tục đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra chống thất thu thuế, nhất là công tác thanh tra, kiểm tra đối với các hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng công nghệ số, kinh doanh bất động sản và một số lĩnh vực kinh doanh khác có rủi ro cao về thuế. Bên cạnh đó, thực hiện tăng cường công tác đôn đốc thu nợ đọng thuế, vận dụng linh hoạt các biện pháp cưỡng chế thu nợ thuế, nhất là các đối tượng có hành vi cố ý dây dưa, chây ỳ để nợ đọng thuế kéo dài, phấn đấu giảm tỷ lệ nợ đọng thuế đến mức thấp nhất theo kế hoạch.

          Tổng sản phẩm (GRDP) trên địa bàn 6 tháng đầu năm 2021 theo giá hiện hành đạt 35.002,3 tỷ đồng, tăng 9,77% so với cùng kỳ. Trong đó, khu vực I đạt 9.317,3 tỷ đồng, tăng 15,4%; khu vực II đạt 7.636,5 tỷ đồng, tăng 10,41%; khu vực III đạt 15.783,2 tỷ đồng, tăng 6,42%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm đạt 2.265,3 tỷ đồng, tăng 9,68% so với cùng kỳ. Cơ cấu các ngành kinh tế 6 tháng đầu năm 2021: khu vực I là 28,46%, khu vực II là 23,33% và khu vực III là 48,21%. Trong năm 2021, với đề xuất 7.620 triệu đồng tổng kinh phí tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng toàn diện, hiện đại, bền vững trên địa bàn 12 huyện, thành phố của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; với 3 hạng mục là nhân rộng các mô hình chuyển đổi giống cây trồng, vật nuôi, chuyển đổi cơ cấu sản xuất, phát triển giống mới (4.000 triệu đồng); phát triển, nâng cấp sản phẩm OCOP (1.100 triệu đồng); đánh giá, phân hạng chứng nhận sản phẩm OCOP (120 triệu đồng) [1].

          2. Hoạt động tài chính, tín dụng

          2.1. Hoạt động tài chính[2]

         Hoạt động tài chính thu ngân sách Nhà nước ngay từ đầu năm đã triển khai thực hiện kịp thời các văn bản chỉ đạo của tỉnh thông qua các biện pháp quản lý thu, mở rộng cơ sở thuế, khai thác có hiệu quả các nguồn thu tiềm năng, đôn đốc cá nhân, đơn vị, doanh nghiệp thực hiện nghiêm việc đóng thuế.

       Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn dự ước đến ngày 30/6/2021 đạt 6.265,5 tỷ đồng, tăng 39,63% so với cùng kỳ, trong đó: thuế, phí, lệ phí đạt 3.509,8 tỷ đồng, tăng 38,38% so với cùng kỳ. Các khoản thu và nhóm khoản thu đạt tiến độ tích cực như: thu từ doanh nghiệp nhà nước Trung ương 473,7 tỷ đồng, đạt 61,6% dự toán địa phương, tăng 30,98%; thu từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 63,3 tỷ đồng, đạt 85,03% dự toán, tăng 23,15%; thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh 1.366,8 tỷ đồng, đạt 56,11% dự toán, tăng 91,49%; các khoản thu về nhà, đất 1.223,1 tỷ đồng, đạt 67,95% dự toán, tăng 47,4% so với cùng kỳ.

        Tổng thu ngân sách địa phương ước đến ngày 30/6/2021 đạt 13.232,7 tỷ đồng, tăng 24,85% so với cùng kỳ. Trong đó, thu ngân sách được hưởng theo phân cấp đạt 5.718,7 tỷ đồng, tăng 41,12%; thu bổ sung từ ngân sách Trung ương đạt 3.390,3 tỷ đồng, tăng 19,35% so với cùng kỳ.

          Tổng chi ngân sách địa phương đến ngày 30/6/2021 ước đạt 7.663,7 tỷ đồng, tăng 6,91% so với cùng kỳ. Trong đó, tổng chi thường xuyên 3.460 tỷ đồng, giảm 6,5% so với cùng kỳ. Trong tổng chi thường xuyên, chi sự nghiệp giáo dục và đào tạo đạt 1.600 tỷ đồng, giảm 1,97%; chi sự nghiệp khoa học công nghệ đạt 12 tỷ đồng, tăng 5,12% so với cùng kỳ.

           2.2. Hoạt động tín dụng[3]

          Các tổ chức tín dụng trên địa bàn đã triển khai các chủ trương, chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng. Đặc biệt quan tâm công tác cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng của dịch Covid -19 với 341 khách hàng được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, 292 khách hàng được miễn, giảm lãi, 16.813 khách hàng cho vay mới với doanh số 37.540 tỷ đồng.

          Ước đến 30/6/2021 vốn huy động đạt 72.600 tỷ đồng, tăng 21,67% so với cùng kỳ. Trong đó, tiền gửi dân cư đạt 51.500 tỷ đồng, chiếm 70,94% tổng vốn huy động, tăng 16,84%; tiền gửi thanh toán và ký quỹ đạt 20.430 tỷ đồng, chiếm 29,06% tổng vốn huy động, tăng 36,15% so với cùng kỳ.

           Ước đến 30/6/2021 tổng dư nợ của các tổ chức tín dụng trên địa bàn đạt 124.800 tỷ đồng, tăng 18,6% so với cùng kỳ. Trong đó, dư nợ trung, dài hạn 36.600 tỷ đồng, chiếm 29,33% tổng dư nợ, tăng 7,81%; dư nợ ngắn hạn 88.200 tỷ đồng, chiếm 70,67% tổng dư nợ, tăng 23,74% so với cùng kỳ.

         Ước đến 30/6/2021 tổng nợ xấu của các tổ chức tín dụng là 530 tỷ đồng, chiếm 0,42% tổng dư nợ, giảm 10,77% so với cùng kỳ.

           3. Giá cả thị trường

           3.1. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)

          Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6/2021 tăng 0,29% so với tháng trước, tăng 2,61% so với cùng kỳ và bình quân 6 tháng đầu năm 2021 tăng 1,61 % so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân khiến CPI tháng này tăng là do giá cả mặt hàng lương thực, thực phẩm biến động; đặc biệt là giá rau, củ tăng mạnh do nhu cầu tiêu dùng tăng trong khi sản lượng sụt giảm khi thời tiết bất lợi nên diện tích rau canh tác ngoài trời bị hư hại nhiều; ảnh hưởng dịch Covid-19 bùng phát lần thứ 4 nhiều hộ nông dân hạn chế xuống giống vì lo ngại không bán được; giá xăng, dầu điều chỉnh tăng ngày 11/6/2021 tác động tăng đến chỉ số giá nhóm giao thông; giá gas tăng 14.000 đồng/bình 12kg; giá dầu hỏa, vật liệu xây dựng tăng mạnh; đồ uống và một số mặt hàng thiết yếu khác tại các siêu thị, cửa hàng hết chương trình khuyến mãi giá tăng trở lại.

          Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng có 06 nhóm tác động tăng CPI so với tháng trước; trong đó, các nhóm có chỉ số giá tăng cao như: nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,86%; nhóm nhà ở, vật liệu xây dựng tăng 0,59%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,39%. Ngược lại, có 03 nhóm tác động giảm CPI so với tháng trước; chỉ số giá nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm nhiều nhất là 0,46%. Các nhóm còn lại gồm bưu chính viễn thông và nhóm giáo dục ổn định so với tháng trước.

            3.2. Chỉ số giá vàng và Đô la Mỹ

           Giá vàng thế giới tăng nhờ sự biến động giảm giá của USD và tiền điện tử; lãi suất trái phiếu Mỹ giảm cũng là nguyên nhân giúp giá kim loại quý ổn định và phục hồi. Trên địa bàn tỉnh giá vàng 9999 bình quân dao động quanh mức 5,705 triệu đồng/chỉ, tăng 1,95% so với tháng trước; tăng 16,74% so với tháng cùng kỳ và bình quân 6 tháng đầu năm 2021 tăng 20,15% so với cùng kỳ.

           Đồng USD đi xuống do các nhà đầu tư lo lắng về nguy cơ lạm phát. Tỷ giá USD trên địa bàn tỉnh dao động quanh mức 23.109 đồng/USD, giảm 0,18% so với tháng trước và giảm 1,4% so với tháng cùng kỳ và bình quân 6 tháng đầu năm 2021 giảm 1,71% so với cùng kỳ.     

           3.3. Chỉ số giá sản xuất

           Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản quý II năm 2021 tăng 10,64% so với cùng kỳ và giảm 0,61% so với quý trước. Trong đó: Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất nông nghiệp tăng 10,9% so với cùng kỳ và giảm 0,63% so với quý trước; cụ thể: sản phẩm của cây hàng năm tăng 18% so với cùng kỳ và giảm 1,42% so với quý trước; sản phẩm của cây lâu năm tăng 7% so với cùng kỳ và tăng 0,48% so với quý trước; sản phẩm chăn nuôi tăng 6,93% so với cùng kỳ và giảm 2,01% so với quý trước. Sản phẩm lâm nghiệp giảm 1,1% so với cùng kỳ và tăng 0,18% so với quý trước. Sản phẩm thủy sản tăng 2,26% so với cùng kỳ và giảm 0,52% so với quý trước.

          Chỉ số giá sản xuất các ngành hàng công nghiệp quý II năm 2021 đều giảm hoặc không tăng so với cùng kỳ. Tuy nhiên do sản lượng điện sản xuất tăng nhiều so với sản lượng đã ký hợp đồng với Tập đoàn Điện lực Việt Nam, các công ty đã bán sản lượng trên thị trường với giá thực tế cao hơn nên chỉ số giá điện và phân phối điện tăng 47,8% so với cùng kỳ và tăng 24,6% so với quý trước làm cho chỉ số giá sản xuất hàng công nghiệp quý II năm 2021 tăng 8,49% so với cùng kỳ và tăng 5,93% so với quý trước. Trong đó, chỉ số giá sản xuất sản phẩm khai khoáng giảm 4,31% so với cùng kỳ và tăng 2,33% so với quý trước; sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 6,12% so với cùng kỳ và giảm 2,01% so với quý trước; chỉ số giá nước, dịch vụ quản lý và xử lý rác thải ổn định so với cùng kỳ và quý trước.

          Chỉ số giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu dùng cho sản xuất quý II năm 2021 tăng 9,48% so với cùng kỳ và tăng 3,19% so với quý trước. Trong đó chỉ số giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu sử dụng cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 5,15% so với cùng kỳ và tăng 0,14% so với quý trước; sử dụng cho sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 12,64% so với cùng kỳ và tăng 5,29% so với quý trước; sử dụng cho xây dựng tăng 5,32% so với cùng kỳ và tăng 1,27% so với quý trước.

          Chỉ số giá cước vận tải kho bãi quý II năm 2021 tăng 1,9% so với cùng kỳ và giảm 0,62% so với quý trước. Trong đó: Giá cước dịch vụ vận tải hành khách giảm 0,77% so với cùng kỳ và giảm 1,89% so với quý trước; giá cước dịch vụ vận tải hàng hóa tăng 3,77% so với cùng kỳ và ổn định so với quý trước; dịch vụ kho bãi, hỗ trợ vận tải và dịch vụ bưu chính chuyển phát ổn định so với cùng kỳ và quý trước. Chia theo ngành vận tải, dịch vụ vận tải đường bộ tăng 3,03% so với cùng kỳ và giảm 0,53% so với quý trước; dịch vụ vận tải hàng không giảm 22,22% so với cùng kỳ và giảm 16,23% so với quý trước.

          Chỉ số giá dịch vụ quý II năm 2021 tăng 4,36% so với cùng kỳ và tăng 0,53% so với quý trước; trong đó, các dịch vụ đều tăng nhẹ từ 0,59% (dịch vụ hoạt động chuyên môn khoa học và công nghệ) đến 3,96% (dịch vụ nghệ thuật vui chơi và giải trí), chỉ dịch vụ hoạt động tài chính ngân hàng và bảo hiểm tăng cao 16,78% so với cùng kỳ. So với quý trước chỉ số giá dịch vụ tăng 0,53%, một vài dịch vụ chỉ số giá ổn định như: hoạt động tài chính ngân hàng và bảo hiểm, giáo dục và đào tạo, ngoài ra các dịch vụ khác tăng nhẹ từ 0,08% (dịch vụ hoạt động hành chính và hỗ trợ) đến 2,02% (dịch vụ nghệ thuật vui chơi và giải trí).

          4. Đầu tư

          Để thực hiện hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2021; ngay từ đầu năm tỉnh đã chỉ đạo các cấp, các ngành đẩy mạnh triển khai thực hiện Chỉ thị của Chính phủ về xây dựng kế hoạch phát triển KT-XH và dự toán ngân sách nhà nước năm 2021. Trong đó: Tập trung đầu tư công, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, hỗ trợ sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh và quản trị hiệu quả kinh doanh của các thành phần kinh tế. Nhìn chung, đối với lĩnh vực đầu tư xây dựng; các cấp, các ngành, các địa phương triển khai sớm các công trình, dự án theo kế hoạch 2021 và hoàn thiện đưa vào sử dụng các công trình chuyển tiếp năm 2020; kêu gọi các tổ chức, doanh nghiệp thực hiện các công trình, dự án nhất là công trình trọng điểm của tỉnh.

          Trong quý II năm 2021 các doanh nghiệp và hộ dân cư đầu tư vào hoạt động xây dựng, nâng cao năng lực sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Chủ trương của UBND tỉnh Lâm Đồng trong hoạt động đầu tư xây dựng phải đảm bảo tiến độ công trình, nhất là công trình vốn đầu tư công; hoàn thành các dự án đã và đang thực hiện cũng như các dự án đã được cấp phép xây dựng mới trong năm 2021.

         Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý II năm 2021 ước đạt 6.815,9 tỷ đồng, tăng 10,68% so với cùng kỳ; trong đó, vốn đầu tư thuộc ngân sách Nhà nước đạt 989,3 tỷ đồng, tăng 30,82%, chủ yếu triển khai hoàn thiện và đưa vào sử dụng các công trình XDCB, đặc biệt là các công trình trọng điểm của tỉnh, công trình thực hiện theo chương trình nông thôn mới; đồng thời tiếp tục thực hiện việc giải ngân các nguồn vốn đầu tư; tập trung và đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện và giải ngân các dự án đầu tư xây dựng trên địa bàn. Vốn đầu tư của dân cư và tư nhân đạt 5.228,5 tỷ đồng, tăng 10,2%, chủ yếu các doanh nghiệp tập trung đầu tư xây dựng nhà xưởng, mua máy móc, thiết bị và bổ sung vốn lưu động để phát triển sản xuất, và đầu tư của khu vực hộ dân cư trong xây dựng, sửa chữa nhà ở cũng như đầu tư cho sản xuất kinh doanh như đầu tư tái canh cây cà phê, sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, đầu tư mở rộng quy mô ngành thương mại, vận tải cá thể …; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 6,7 tỷ đồng, bằng 5,78% so với cùng kỳ, chủ yếu thực hiện các khoản mục đầu tư mua sắm máy móc thiết bị không qua XDCB, bổ sung vốn lưu động và sửa chữa nâng cấp tài sản cố định... của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

          Dự ước vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội 6 tháng đầu năm 2021 đạt 11.383,3 tỷ đồng, tăng 9,19% so với cùng kỳ; trong đó, vốn đầu tư thuộc ngân sách Nhà nước đạt 1.426,9 tỷ đồng, tăng 21,75%; vốn đầu tư của dân cư và tư nhân đạt 8.972,3 tỷ đồng, tăng 9,8%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 13,3 tỷ đồng, bằng 6,82% so với cùng kỳ.

Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành

Triệu đồng; %

 

 

Thực hiện quý I năm 2021

Ước tính quý II năm 2021

Cộng dồn 06 tháng năm 2021

So với cùng kỳ năm trước (%)

   

Quý I năm 2021

Quý II năm 2021

06 tháng năm 2021

TỔNG SỐ

4.567.368

6.815.925

11.383.293

107,04

110,68

109,19

 

Vốn đầu tư thuộc ngân sách Nhà nước

437.596

989.332

1.426.928

105,25

130,82

121,75

 

Vốn trái phiếu Chính phủ

           
 

Vốn tín dụng đầu tư phát triển

 

4.400

4.400

 

106,56

67,00

 

Vốn vay từ các nguồn khác
(của khu vực Nhà nước)

32.000

28.211

60.211

114,29

102,59

108,49

 

Vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước (Vốn tự có)

1.660

14.009

15.669

2,14

13,38

8,60

 

Vốn đầu tư của dân cư và tư nhân

3.743.743

5.228.530

8.972.273

109,24

110,20

109,80

 

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

6.614

6.667

13.281

8,35

5,78

6,82

 

Vốn huy động khác

345.755

544.776

890.531

145,89

136,19

139,80

                 

         Đối với nguồn vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý tháng 6/2021 ước đạt 340,3 tỷ đồng, tăng 23,95% so với cùng kỳ; nguồn vốn thuộc ngân sách nhà nước cấp tỉnh đạt 313,3 tỷ đồng, tăng 24,78% so với cùng kỳ. Trong đó, vốn cân đối ngân sách tỉnh đạt 143,5 tỷ đồng; vốn Trung ương hỗ trợ theo mục tiêu đạt 88,5 tỷ đồng; vốn từ xổ số kiến thiết đạt 70 tỷ đồng và nguồn vốn khác đạt 11,3 tỷ đồng. Nguồn vốn thuộc ngân sách nhà nước cấp huyện đạt 27 tỷ đồng, tăng 15% so với cùng kỳ. Trong đó; vốn cân đối ngân sách huyện đạt 17,8 tỷ đồng; vốn tỉnh hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu đạt 6,3 tỷ đồng. Nguồn vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý quý II năm 2021 đạt 911,3 tỷ đồng, tăng 23,27% so với cùng kỳ; nguồn vốn thuộc ngân sách nhà nước cấp tỉnh đạt 835,9 tỷ đồng, tăng 22,89% so với cùng kỳ. Trong đó, vốn cân đối ngân sách tỉnh đạt 336,2 tỷ đồng; vốn Trung ương hỗ trợ theo mục tiêu đạt 275,8 tỷ đồng; vốn từ xổ số kiến thiết đạt 186,5 tỷ đồng và nguồn vốn khác đạt 37,5 tỷ đồng. Nguồn vốn thuộc ngân sách nhà nước cấp huyện đạt 75,4 tỷ đồng, tăng 27,68% so với cùng kỳ; trong đó; vốn cân đối ngân sách huyện đạt 42,9 tỷ đồng; vốn tỉnh hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu đạt 25,7 tỷ đồng.

         Dự ước nguồn vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý 6 tháng đầu năm 2021 đạt 1.274,9 tỷ đồng, tăng 23,31% so với cùng kỳ; nguồn vốn thuộc ngân sách nhà nước cấp tỉnh đạt 1.164,2 tỷ đồng, tăng 24,81% so với cùng kỳ. Trong đó, vốn cân đối ngân sách tỉnh đạt 577,7 tỷ đồng; vốn Trung ương hỗ trợ theo mục tiêu đạt 275,8 tỷ đồng; vốn từ xổ số kiến thiết đạt 253,7 tỷ đồng và nguồn vốn khác đạt 57 tỷ đồng. Nguồn vốn thuộc ngân sách nhà nước cấp huyện đạt 110,7 tỷ đồng, tăng 9,47% so với cùng kỳ; trong đó; vốn cân đối ngân sách huyện đạt 78,2 tỷ đồng; vốn tỉnh hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu đạt 25,7 tỷ đồng.

         Tính đến cuối tháng 6/2021, trên địa bàn tỉnh có 522 công trình tiếp tục triển khai; trong đó một số công trình lớn như: xây dựng Trường bắn, thao trường huấn luyện cho lực lượng vũ trang thành phố Đà Lạt, nâng cấp đường Đan Kia và cầu Phước Thành, phường 7, thành phố Đà Lạt. Xây dựng các tuyến đường đô thị đường Lê Lai nối Phan Chu Trinh (phường Lộc Tiến), xây dựng đường liên thôn 11,13,14 xã ĐamBri (đi Lộc Tân, Bảo Lâm), đường nối Nguyễn Tri Phương (phường Lộc Tiến) đến đường Nguyễn An Ninh, thành phố Bảo Lộc. Đường cứu hộ cứu nạn từ QL27 vào Trung tâm xã Rô Men, đường giao thông vào khu dân cư Liêng Trang 1 + 2 và nâng cấp đường ĐT 722 vào khu sản xuất Pớ Păng, huyện Đam Rông. Xây dựng hồ chống bồi lắng, nhà máy xử lý nước thải khu vực Đan kia, Suối Vàng giai đoạn 1, đường từ xã Lát đi Phi tô - Lâm Hà, huyện Lạc Dương. Đường giao thông nông thôn liên xã từ Đan Phượng (Lâm Hà) đi xã Tân Thành (Đức Trọng), đường giao thông liên xã Hoài Đức đi Tân Thanh, huyện Lâm Hà. Đường liên xã Tu Tra – Ka Đơn, xây dựng các tuyến đường giao thông nông thôn trên địa bàn thị trấn Thạnh Mỹ, xây dựng hoàn chỉnh 02 trường Mầm non đạt chuẩn (Ka Đô, Hoàng Oanh), huyện Đơn Dương. Đường trục xã Liên Hiệp đi N'Thol Hạ, xây dựng đường từ Phú Hội đi Tân Hội, huyện Đức Trọng. Xây dựng đường giao thông nông thôn vào khu sản xuất lớn xã Hòa Bắc - Hòa Nam, trường mầm non Hòa Nam, huyện Di Linh. Vỉa hè, hệ thống thoát nước dọc đường trung tâm thị trấn Lộc Thắng (đi vào khu tái định cư Bau xít), đường giao thông xã B'Lá đi xã Lộc Quảng, huyện Bảo Lâm. Đường liên xã từ thôn 1 Xã Đạ Oai đi Đạ Tồn, nâng cấp đường giao thông thôn 3 thị trấn Đạm Ri (đoạn từ Hoa sen đi khu dân cư), huyện Đạ Huoai. Nâng cấp mở rộng đường giao thông từ đường ĐT721 vào thôn Hương Sơn, Hương Thủy, Hương Thanh xã Hương Lâm, sửa chữa nâng cấp các trường học, huyện Cát Tiên.

          5. Tình hình đăng ký doanh nghiệp và thu hút đầu tư[4]

          Đăng ký kinh doanh:Từ đầu năm đến ngày 21/06/2021, có 683 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký 8.976,8 tỷ đồng. So với cùng kỳ, số lượng tăng 28,9% và tăng 94,6% về vốn. Số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động 274 doanh nghiệp, tăng 1,1%; giải thể 61 doanh nghiệp, tăng 46 doanh nghiệp; có 210 doanh nghiệp hoạt động trở lại, tăng 59,1% so với cùng kỳ.

          Tình hình thu hút đầu tư: Trong 6 tháng đầu năm 2021 có 12 dự án (11 dự án vốn trong nước và 01 dự án FDI) được cấp Quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư/Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (trong tháng 6/2021, không có dự án được cấp Quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư/Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư).

          Điều chỉnh dự án đầu tư: Trong 6 tháng đầu năm 2021 có 31 dự án được điều chỉnh nội dung dự án đầu tư, trong đó: điều chỉnh 05 dự án trong khu công nghiệp (02 dự án FDI, 03 dự án vốn trong nước), 26 dự án ngoài khu công nghiệp (03 dự án FDI, 23 dự án vốn trong nước).

          Thu hồi, chấm dứt hoạt động dự án đầu tư: Trong 6 tháng đầu năm 2021 có 40 dự án bị thu hồi, chấm dứt hoạt động đầu tư (38 dự án ngoài khu công nghiệp và 02 dự án trong khu công nghiệp) với số vốn đăng ký đầu tư 5.562,52 tỷ đồng; trong đó, 04 dự án FDI với số vốn đăng ký đầu tư 473,7 tỷ đồng, 36 dự án trong nước với số vốn đăng ký đầu tư 5.088,79 tỷ đồng.

          6. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

          Trong 6 tháng đầu năm 2021, hoạt động sản xuất nông nghiệp tập trung gieo trồng và thu hoạch cây hàng năm vụ Đông Xuân; gieo trồng, chăm sóc, bón phân cây trồng vụ Hè Thu; thu hoạch một số loại cây lâu năm đến thời kỳ cho sản phẩm như hồ tiêu, điều. Tiếp tục trồng mới, tái canh cải tạo, tưới tiêu chăm sóc cây lâu năm; triển khai công tác phòng chống dịch bệnh trên cây trồng và vật nuôi. Sản xuất lâm nghiệp tập trung chủ yếu cho công tác phòng cháy, chữa cháy rừng. Sản xuất thủy sản phát triển nuôi trồng thủy sản lồng bè, bể bồn khả quan hơn so với cùng kỳ, chủ yếu nuôi cá tầm.

          6.1. Sản xuất nông nghiệp

          * Sản xuất nông nghiệp 6 tháng đầu năm 2020

          Tổng diện tích gieo trồng trong 6 tháng đầu năm ước đạt 335.751,2 ha, tăng 1,69% (+5.593 ha) so với cùng kỳ, chia ra: cây hàng năm 77.111 ha, chiếm 22,97%, tăng 3,19% (+2.351,6 ha); cây lâu năm 258.640,2 ha, chiếm 77,03%, tăng 1,26% (+3.211,3 ha) so với cùng kỳ.

          Tổng sản lượng lương thực có hạt ước đạt 67.987,7 tấn, tăng 5,52% (+3.554 tấn) so với cùng kỳ. Trong đó: Sản lượng thóc ước đạt 54.653 tấn, tăng 9,42% (+4.703 tấn); sản lượng ngô ước đạt 13.334,7 tấn, giảm 7,93% (-1.149 tấn) so với cùng kỳ.

          * Cây hàng năm: Tổng diện tích gieo trồng ước đạt 77.111 ha, tăng 3,19% (+2.381,6 ha) so với cùng kỳ, trong đó: diện tích cây lúa 14.421,02 ha, tăng 0,47% (+67 ha); diện tích ngô đạt 5.758,85 ha, giảm 3,17% (-189 ha); rau các loại đạt 39.808 ha, tăng 3,69% (+1.415,4 ha); hoa các loại đạt 5.172 ha, tăng 2,8% (+141 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng rau các loại 714.067,6 tấn, tăng 1,74% (+12.206 tấn); hoa các loại 1.090,3 triệu bông/cành, tăng 13,82% (+132,4 triệu cành/bông) so với cùng kỳ.

Sản xuất nông nghiệp 6 tháng đầu năm 2021

 

Thực hiện cùng kỳ năm trước

Thực hiện kỳ báo cáo

So với cùng kỳ (%)

1. Tổng sản lượng lương thực có hạt (Tấn)

        64.433,7

  67.987,7

105,52

       Thóc

        49.950,0

  54.653,0

109,42

       Ngô

        14.483,7

  13.334,7

92,07

2. Tổng diện tích gieo trồng cây hàng (Ha)

     330.158,1

335.751,1

101,69

    Trong đó:

 

 

 

    Cây hàng năm

       74.729,4

  77.111,0

103,19

       Lúa

        14.354,0

  14.421,0

100,47

       Ngô

          5.947,9

    5.758,9

96,82

       Rau các loại

        38.392,6

  39.808,0

103,69

       Hoa các loại

         5.031,0

    5.172,0

102,80

    Sản lượng thu hoạch

 

 

 

       Rau các loại (Tấn)

      701.858,6

714.064,6

101,74

       Hoa các loại (Triệu bông/cành)

             957,9

    1.090,3

113,82

 

          * Cây lâu năm: Tổng diện tích cây lâu năm hiện có tại các địa phương trong tỉnh 258.640,2 ha, tăng 1,26% (+3.211,3 ha) so với cùng kỳ, tăng chủ yếu do trồng mới cây ăn quả các loại, cà phê, dâu tằm, tập trung một số vùng thuộc huyện Di Linh, Lâm Hà, Đức Trọng, Bảo Lâm, Đạ Huoai, Đạ Tẻh. Riêng diện tích cây điều có xu hướng giảm mạnh ở 2 địa phương có diện tích lớn nhất là Đạ Huoai và Đạ Tẻh để chuyển sang những cây trồng khác có giá trị kinh tế cao hơn như dâu tằm, cây ăn quả. Cây lâu năm đa dạng về chủng loại, chiếm tỷ trọng cao nhất là cây cà phê với diện tích hiện có 175.186,5 ha, chiếm 67,73%, giảm 0,22%; tiếp đến cây ăn quả 29.226,5 ha, chiếm 11,3%, tăng 16,75%; điều 21.649 ha, chiếm 8,37%, giảm 4,54%; chè 10.846,8 ha, chiếm 4,19%, giảm 1,7%; cao su 9.356,5 ha, chiếm 3,62%, giảm 0,9%; dâu tằm 9.455,7 ha, chiếm 3,66%, tăng 8,13%; hồ tiêu 2.233,8 ha, chiếm 0,86%, giảm 4,36% so với cùng kỳ.

          Trồng mới cây lâu năm: Diện tích trồng mới và tái canh cây lâu năm thực hiện khoảng 600 ha, bằng 46,15% (-700 ha) so với cùng kỳ, trong đó: Cây cà phê 250 ha; cây ăn quả các loại 150 ha; cây dâu tằm thực hiện trồng mới 200 ha.

          Sản lượng thu hoạch: Tình hình thu hoạch sản phẩm cây lâu năm 6 tháng đầu năm 2021, đối với cây điều, hồ tiêu đang bước vào mùa thu hoạch rộ, đối với cây chè, dâu tằm thu hoạch theo đợt, còn các cây ăn quả như sầu riêng, bơ... đến kỳ cho thu hoạch sản phẩm. Sản lượng thu hoạch điều 10.836,3 tấn, tăng 2,2% (+233 tấn); tiêu 4.317,2 tấn, tăng 1,2% (+51,2 tấn); cao su 586 tấn, tăng 2,8%; chè  63.092 tấn, giảm 1,6% (-1.026 tấn); dâu tằm 53.389,5 tấn, tăng 6,5% (+3.258,5 tấn); sầu riêng 19.859,3 tấn, tăng 15,3% (+2.635,3 tấn); bơ 9.070,6 tấn, tăng 6,4% (+546 tấn); so với cùng kỳ.

Sản xuất cây lâu năm 6 tháng đầu năm 2021

 

Thực hiện cùng kỳ năm trước

Thực hiện kỳ báo cáo

So với cùng kỳ (%)

3. Cây lâu năm

     

    Diện tích gieo trồng (Ha)

       255.428,9

    258.640,2

101,26

      Cà phê

       175.577,3

    175.186,5

99,78

      Điều

         22.678,5

      21.649,0

95,46

      Chè

         11.034,4

      10.846,8

98,30

      Cao su

           9.441,9

        9.356,5

99,10

      Hồ tiêu

           2.335,8

        2.233,8

95,63

      Dâu tằm

           8.744,7

        9.455,7

108,13

      Cây ăn quả

         25.034,2

      29.226,5

116,75

   Sản lượng thu hoạch (Tấn)

     

      Điều

         10.603,0

      10.836,3

102,20

      Chè

         64.125,0

      63.099,2

98,40

      Cao su

              570,0

           586,0

102,81

      Hồ tiêu

          4.266,0

       4.317,2

101,20

      Dâu tằm

       50.131,0

     53.389,5

106,50

          * Gieo trồng và thu hoạch vụ Đông xuân 2021

          Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm ước đạt 40.523,51 ha, tăng 2,91% (+1.144,3 ha) so với cùng kỳ. Trong đó:

          Cây lúa: Diện tích gieo trồng 9.260,6 ha/8.648 ha, vượt 7,08% so kế hoạch, tăng 1,6% (145,6 ha) so với cùng kỳ, ở Đơn Dương tăng 227 ha; Đức Trọng tăng 97 ha và Đạ Tẻh tăng 29 ha do đủ nguồn nước; tuy nhiên Đam Rông giảm 85 ha do đang tu sửa hệ thống kênh mương thủy lợi; Lâm Hà giảm 148 ha do chuyển đổi sang cây trồng có kinh tế cao hơn như dâu nuôi tằm, cây ăn trái. Dự ước năng suất bình quân chung của tỉnh đạt 59,02 tạ/ha, tăng 7,69% (+4,22 tạ/ha) so với cùng kỳ, do đủ nguồn nước, ít dịch bệnh; ước sản lượng đạt 54.653 tấn, tăng 9,42% (+4.703 tấn) so với cùng kỳ, chủ yếu do tăng năng suất và diện tích gieo trồng.

          Cây ngô: Diện tích gieo trồng là 1.789,2 ha, giảm 7,28% (-140,4 ha) so với cùng kỳ, do diện tích được trồng các loại cây này ngày càng thu hẹp, mặt khác một số huyện chuyển sang trồng ngô cây để làm thức ăn cho bò. Ước năng suất bình quân chung đạt 74,53 tạ/ha, giảm 0,71% (-0,53 tạ/ha); sản lượng ước đạt 13.334,69 tấn, giảm 7,93% (-1.149 tấn) so với cùng kỳ.

          Cây có hạt chứa dầu: Diện tích gieo trồng 170,6 ha, tăng 36,82% (+46 ha) so với cùng kỳ, năng suất ước đạt 12,51 tạ/ha, giảm 1,68% (-0,21 tạ/ha). Trong đó: cây đỗ tương (đậu nành) gieo trồng 20,5 ha, năng suất ước đạt 13,03 tạ/ha, sản lượng ước đạt 26,72 tấn; cây lạc (đậu phộng) diện tích gieo trồng 149,2 ha, năng suất ước đạt 12,48 tạ/ha, sản lượng ước đạt 186,26 tấn.

          Cây lấy củ có chất bột: Diện tích gieo trồng 1.659,7 ha, tăng 20,35% so với cùng kỳ. Trong đó: Khoai lang gieo trồng 612,4 ha, chiếm 36,9%, giảm 4,25%; năng suất ước đạt 231,64 tạ/ha, tăng 23,79%; sản lượng ước đạt 14.186,3 tấn, tăng 18,53%. Cây khoai tây 1.006,8 ha, chiếm 60,66%; năng suất ước đạt 231,12 tạ/ha; sản lượng ước đạt 23.269,4 tấn, tăng 26,68%, chủ yếu do tăng diện tích gieo trồng.

          Rau các loại: Gieo trồng 20.082,6 ha, tăng 2,91%; tập trung ở Đơn Dương 7.785 ha, chiếm 38,76%; Đức Trọng 6.817 ha, chiếm 33,94%; thành phố Đà Lạt 2.063 ha, chiếm 10,27%; Lạc Dương 1.618 ha, chiếm 8,06% và Lâm Hà 617 ha, chiếm 3,07%. Sản lượng rau các loại ước đạt 714.067,6 tấn, tăng 1,74% (+12.206 tấn) so với cùng kỳ.

          Hoa các loại: Diện tích hoa toàn tỉnh gieo trồng được 3.176,7 ha, tăng 2,19% (+68 ha) so với cùng kỳ (riêng thành phố Đà Lạt 1.874,8 ha, chiếm 58,42%; Đức Trọng 558 ha, chiếm 17,6%; Lạc Dương 413 ha, chiếm 13,01%). Sản lượng ước đạt 1.090,3 triệu bông, tăng 13,82% (+132,4 triệu bông/cành) do tăng diện tích và năng suất gieo trồng.

          Cây hàng năm khác:Diện tích gieo trồng sơ bộ 3.975,16 ha, chiếm 9,82%, tăng 5,94% (+223 ha) so với cùng kỳ. Trong đó: Cây Atiso 93,7 ha, cỏ voi làm thức ăn gia súc 2.636,9 ha, giảm 0,98% (-26 ha) so với cùng kỳ do chuyển sang trồng ngô cho bò.

          * Gieo trồng vụ Hè Thu

          Tính đến ngày 10/6/2021, toàn tỉnh đã tiến hành xuống giống gieo trồng vụ Hè Thu được 36.587,5 ha, tăng 3,5% (+1.237,3 ha) so với cùng kỳ. Trong đó:

          Lúa  gieo cấy là 5.160,4 ha, giảm 1,5% (-78,6 ha) so với cùng kỳ, diện tích gieo cấy chủ yếu ở huyện phía Nam (Cát Tiên 3.320 ha, chiếm 97,26%).

          Ngô gieo trồng 3.969,6 ha,  giảm 1,2% (+48,2 ha) so với cùng kỳ, cây ngô được xác định là cây trồng chính trong vụ, do vậy bà con nông dân tranh thủ gieo trồng, tận dụng diện tích thu hoạch vụ Đông Xuân có nước tưới để gieo trồng.

          Rau các loại gieo trồng 19.725,3 ha, tăng 4,5% (+849,4 ha) so với cùng kỳ, tập trung chủ yếu ở vùng chuyên canh rau như: Đơn Dương, Đà Lạt, Lạc Dương, Đức Trọng, các địa phương còn lại diện tích gieo trồng không đáng kể.

          Hoa các loại 1.995,2  ha, tăng 3,8% (+73 ha) so với cùng kỳ.

          Cây hàng năm khác 4.868,9 ha, tăng 9,28% so với cùng kỳ, trong đó diện tích cỏ voi làm thức ăn gia súc 2.626 ha, chiếm 53,93%, tăng 4,42% so với cùng kỳ.

          * Công tác phòng chống dịch bệnh trên cây trồng

          Trong 6 tháng đầu năm, tình hình dịch bệnh trên cây trồng cơ bản được đảm bảo an toàn, hầu hết chỉ gây hại ở mức độ nhẹ[5]. Các cơ quan chuyên môn đã phối hợp chặt chẽ với địa phương, theo dõi diễn biến của các loại dịch hại đang phát sinh tại các địa phương lân cận để triển khai các biện pháp phòng trừ phù hợp, đặc biệt là bọ cánh cứng đang trực tiếp gây hại trên các loại cây công nghiệp, cây ăn trái các loại… ở tỉnh Bình Phước có nhiều khả năng xâm nhập vào các vùng nông nghiệp tỉnh Lâm Đồng.

          * Một số tình hình liên quan đến sản xuất nông nghiệp

          Tình hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao: Toàn tỉnh hiện có trên 60,2 ngàn ha sản xuất theo hướng ứng dụng công nghệ cao, chiếm 20,08% diện tích đất canh tác, trong đó: diện tích rau các loại khoảng 24,3 ngàn ha; hoa các loại trên 2,9 ngàn ha.

          Tình hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng: Đã thực hiện chuyển đổi 16.716 ha, trong đó chuyển đổi đất trồng lúa 2.705 ha; chuyển đổi đất trồng điều 1.884 ha; tái canh, ghép cải tạo cà phê 7.689 ha; chuyển đổi cây trồng khác 4.438 ha.

          * Tình hình chăn nuôi

          Trong 6 tháng đầu năm 2021, tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh cơ bản ổn định; đàn lợn đã dần tăng trở lại; đàn gia cầm phát triển mạnh; nhưng đàn bò thịt, đàn trâu có chiều hướng giảm do giá thịt hơi không ổn định, các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ không đầu tư tăng đàn. Nghề trồng dâu nuôi tằm đang phát triển, giá kén tằm ổn định và tiếp tục tăng. Tuy nhiên trong điều kiện dịch bệnh diễn biến phức tạp, dịch cúm A-H5N1, A-H5N6 trên đàn gia cầm, lở mồm long móng, dịch tả lợn Châu Phi đang tiềm ẩn cao nguy cơ bùng phát trở lại trên đàn gia súc, gia cầm.

          Tổng đàn trâu toàn tỉnh 6 tháng đầu năm ước đạt 13.121 con, giảm 5,1% (-705 con) so với cùng kỳ, do diện tích đồng cỏ tự nhiên ngày càng thu hẹp, đàn trâu không còn sử dụng để làm sức kéo như trước mà được thay thế bằng cơ giới hóa, đa số chăn thả trâu chủ yếu trong rừng để nuôi thương phẩm với mục đích lấy thịt. Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng trong 6 tháng qua ước đạt 507,8 tấn, giảm 18,63% (-116,3 tấn) so với cùng kỳ.

          Tổng đàn bò toàn tỉnh 6 tháng đầu năm ước đạt 96.936 con[6], giảm 6,73% (-6.992 con) so với cùng kỳ. Chăn nuôi bò được tập trung nhiều ở các địa phương như: Đơn Dương 27.864 con, chiếm 28,74%; Đức Trọng 22.700 con, chiếm 23,42%. Sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng trong 6 tháng qua đạt 2.763,8 tấn, giảm 19,55% (-672 tấn) so với cùng kỳ. Giá sữa tươi hiện nay trên địa bàn tỉnh dao động từ 12.000 - 14.000 đ/lít. Sản lượng sữa bò 6 tháng đầu năm ước đạt 50.848,3 tấn, tăng 13,8% (+6.164 tấn) so với cùng kỳ.

          Tổng đàn lợn 6 tháng đầu năm ước đạt 388.220 con[7], tăng 7,62% (+27.491 con) so với cùng kỳ. Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm ước đạt 35.287,7 tấn, giảm 6,73% (-2.547 tấn) so với cùng kỳ, tương ứng với số con lợn thịt xuất chuồng 365.553 con, trọng lượng bình quân xuất chuồng đạt 96,53 kg/con, tăng  5,11 kg/con so với cùng kỳ.

          Tổng số gia cầm ước đạt 11.028,25 ngàn con, tăng 0,5% (+54,4 nghìn con) so với cùng kỳ. Trong đó: Đàn gà 5.210,1 nghìn con, chiếm 47,24% tổng đàn gia cầm, tăng 6,28% so với cùng kỳ. Số gà xuất chuồng trong 6 tháng qua ước đạt 4.582,6 nghìn con, giảm 2,63% (-123,9 ngàn con); sản lượng thịt hơi xuất chuồng 9.749,1 tấn, giảm 1,17% (-115,9 tấn) so với cùng kỳ. Sản lượng trứng gà thu trong 6 tháng qua ước đạt 167.750,5 nghìn quả, tăng 4,1% (+6.601,6 nghìn quả) so với cùng kỳ, bình quân đạt 101,56 quả/con, trong đó: mái đẻ công nghiệp đạt 139,9 quả/con.

          Sản lượng kén tằm ước đạt 4.506,2 tấn, tăng 61,52% (+1.716 tấn) so với cùng kỳ. Hiện nay, ngành dâu tằm tơ trên địa bàn tỉnh đang phát triển mạnh, nhất là Lâm Hà, Đạ Tẻh, Đức Trọng, Bảo Lộc, Di Linh.

          * Tình hình dịch bệnh và công tác phòng chống:

          Tình hình dịch bệnh và công tác phòng, chống dịch bệnh: Trong tháng, tình hình bệnh trên đàn vật nuôi cơ bản được kiểm soát, không phát sinh thêm gia súc mắc bệnh, nhất là dịch tả lợn Châu Phi, lở mồm long móng trên đàn vật nuôi. Công tác phòng chống dịch bệnh được tăng cường, công tác phòng chống dịch bệnh trong tình hình diễn biến phức tạp của dịch bệnh tại một số tỉnh[8]; đẩy nhanh tiến độ tiêm phòng đợt I/2021, tiêu độc khử trùng đợt II/2021.

          Công tác kiểm dịch động vật, kiểm soát và kiểm tra vệ sinh thú y: Kiểm dịch xuất tỉnh đối với 148.248 con lợn; 398 con bò; 1,7 triệu con gia cầm (trong đó 1,4 triệu con gà giống 01 ngày tuổi); 110.000 con cá tầm giống; 49,5 tấn sản phẩm đông lạnh; 17 tấn phế vụn tơ tằm; 700 tấm da bò và 143,7 tấn sản phẩm khác (nhộng tằm). Kiểm dịch nhập tỉnh đối với 37 con bò; 1.335 con lợn; 51.700 con gia cầm và 30,6 tấn sản phẩm đông lạnh.

          6.2. Lâm nghiệp

          Từ đầu năm đến nay diễn biến thời tiết tương đối thuận lợi, đã có những cơn mưa trái mùa tạo điều kiện thuận lợi cho công tác trồng, chăm sóc, nuôi dưỡng rừng. Sản xuất lâm nghiệp trong 6 tháng đầu năm 2021 với một số chỉ tiêu chủ yếu như sau:

          Rừng sản xuất trồng mới: Diện tích rừng trồng 445 ha, chủ yếu trồng rừng sau khai thác trắng và trồng rừng trên đất trống của hộ, đối với khu vực kinh tế Nhà nước đang thẩm định hồ sơ trồng rừng năm 2021.

          Rừng trồng được chăm sóc: Đạt 7.170 ha, tăng 6,22% (+420 ha) so với cùng kỳ. Trong đó: Diện tích rừng sản xuất được chăm sóc đạt 3.320 ha, chiếm 46,3%, tăng 2,15% (+70 ha); rừng phòng hộ được chăm sóc đạt 3.850 ha, chiếm 53,7%, tăng 10% (+350 ha) so với cùng kỳ.

          Trồng cây lâm nghiệp phân tán: Thực hiện 62,5 nghìn cây, tăng 2,04% so với cùng kỳ, công tác trồng cây phân tán hiện đang tiếp tục thực hiện (các văn bản chỉ đạo của cấp trên [9]).

          Quản lý bảo vệ rừng: Tổng diện tích đã khoán 452.649,4 ha. Trong đó: Nguồn vốn ngân sách tỉnh 56.912,65 ha; Nguồn vốn chi trả DVMTR 395.736,39 ha. Hiện nay các đơn vị chủ rừng đang tiếp tục rà soát, đăng ký bổ sung các diện tích chi trả dịch vụ môi trường rừng năm 2021.

          Khai thác lâm sản: Khối lượng gỗ tròn các loại khai đạt 25.380,5 m3, tăng 2,9% (+715,5 m3) so với cùng kỳ, tăng chủ yếu là rừng trồng. Củi thước 44.872,5 ster, giảm 3,5% (-1.627,5 ster); tre/lồ ô 1.550 ngàn cây, tăng 3,33% (+50 ngàn cây); trúc, le, luồng, vầu 3.777,75 ngàn cây, tăng 3,5%; song mây 16,5 tấn, tăng 10% (+1,5 tấn);  rau rừng 965 tấn, giảm 1,03% so với cùng kỳ.

          Tình hình vi phạm lâm luật: Từ ngày 10/12/2020 đến 10/6/2021 tổng số vụ vi phạm là 267 vụ, giảm 24,86% (-90 vụ) so với cùng kỳ; diện tích thiệt hại do phá rừng 17,51 ha, lâm sản thiệt hại (04 hành vi) là 1.408,6 m3. Tổng số vụ đã xử lý 238 vụ, trong đó xử lý hành chính 224 vụ; xử lý hình sự 14 vụ; tịch thu 475,3 m3 gỗ tròn, xẻ các loại; thu nộp ngân sách 3,35 tỷ đồng.

          Công tác phòng chống cháy rừng: Tính đến ngày 12/6/2021 trên địa bàn toàn tỉnh xảy ra 05 vụ cháy/7,16 ha, trong đó: 02 vụ cháy rừng/1,83 ha; loại rừng hỗn giao-lồ ô (không thiệt hại đến tài nguyên rừng); 03 vụ cháy thảm cỏ cây bụi dưới tán rừng/5,33 ha (không gây thiệt hại đến tài nguyên rừng. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh xảy các điểm cháy nhỏ/cháy thảm cỏ cây bụi, không ảnh hưởng đến tài nguyên rừng. Các điểm cháy đã được phát hiện kịp thời và huy động lực lượng chữa cháy dập tắt ngay.

          Công tác cho thuê rừng, đất lâm nghiệp: Trên địa bàn toàn tỉnh hiện có 326 dự án/311 tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được giao, cho thuê đất để đầu tư triển khai dự án, với tổng diện tích là 52.800 ha (đã trừ diện tích thu hồi một phần). Tổng số dự án đã thu hồi 201 dự án/33.768 ha (gồm 165 dự án thu hồi toàn bộ/29.529 ha và 36 dự án thu hồi một phần/4.239ha) do không triển khai thực hiện dự án theo quy định.

          6.3. Thủy sản

          Trong 6 tháng đầu năm 2021 diện tích nuôi trồng thủy sản giảm do nguồn nước không ổn định, một số diện tích ao, hồ nuôi kém hiệu quả bị san lấp để chuyển sang trồng dâu nuôi tằm, trồng cây ăn trái hoặc xây nhà cửa. Diện tích nuôi trồng thủy sản phổ biến là nuôi cá, hình thức nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến. Khai thác thuỷ sản có chiều hướng giảm, do nguồn thủy sản tự nhiên ngày càng cạn kiệt.

          Diện tích mặt nước nuôi thủy sản: 2.381,46 ha, giảm 2,62% (-63,96 ha) so với cùng kỳ. Chủ yếu là nuôi cá có 2.381,41 ha, chiếm 99,99%; còn lại là thủy sản khác chiếm tỷ trọng thấp 0,01%.

          Sản lượng thủy sản: Sản lượng thủy sản nuôi trồng và khai thác ước tính 6 tháng đầu năm 2021 đạt 4.671,41 tấn, tăng 4,3% (+192,63 tấn) so với cùng kỳ. Sản lượng tăng phần lớn ở khâu nuôi trồng thủy sản, sản lượng thủy sản nuôi trồng, ước đạt 4.476,29 tấn, chiếm 95,82% sản lượng, tăng 4,5% (+192,81 tấn) so với cùng; sản lượng thủy sản khai thác ước đạt 195,12 tấn, chiếm 4,18%, giảm 0,09% (-0,18 tấn) so với cùng kỳ.  

          Nuôi trồng thủy sản lồng bè: Toàn tỉnh hiện có 30 cơ sở  nuôi thủy sản lồng, bè trên sông, hồ (có 28 hộ gia đình và 01 doanh nghiệp, 01 HTX) với số lồng, bè nuôi 409 cái, tăng 66,26% (+163 cái); thể tích lồng nuôi trong kỳ 42.790 m3, tăng 4,06% (+1.671 m3). Trong đó, số lồng bè nuôi cá tầm 205 cái, chiếm 50,12%, thể tích lồng nuôi 21.960 m3, chiếm 51,32%; cá diêu hồng 8.419 m3, chiếm 19,67%; cá lăng 3.239 m3, chiếm 7,57%; cá rô phi 2.842 m3, chiếm 6,64%; còn lại lồng nuôi các loại cá khác 6.330 m3, chiếm 14,8%.

          Nuôi trồng thủy sản bể bồn: Toàn tỉnh có 13 cơ sở nuôi thủy sản bể bồn, trong đó 07 doanh nghiệp và 06 hộ cá thể. Thể tích nuôi 98.334 m3, trong đó thể tích cho thu hoạch 81.334 m3, chủ yếu là nuôi cá tầm 81.034 m3, chiếm 99,63%.

          Sản xuất giống thủy sản: Tổng diện tích/thể tích ươm, nuôi thủy sản nội địa 7.600 m2, thể tích nuôi 1.790 m3. Sản lượng ước đạt 18,31 triệu con, chủ yếu là cá giống, tăng 4,11% (+0,72 triệu con), trong đó cá tầm giống tăng 5,3% (+0,11 triệu con) so với cùng kỳ.

          7. Sản xuất công nghiệp

          Tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh trong 6 tháng đầu năm 2021 tuy diễn ra trong bối cảnh vừa chống dịch Covid-19 vừa đảm bảo sản xuất hàng hóa cho thị trường nhưng vẫn có mức tăng trưởng khá. Do được sự chỉ đạo sát sao của lãnh đạo địa phương, các cấp, các ngành đồng thời các cơ sở sản xuất công nghiệp trên địa bàn đã chủ động đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, tìm kiếm thị truwòng cũng như nâng cao chất lượng sản phẩm phục nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Bên cạnh đó nguồn nguyên liệu đầu vào tại địa phương dồi dào như: rau, chè, cà phê … đảm bảo cung cấp cho ngành công nghiệp chế biến.

          7.1. Sản xuất công nghiệp ước tháng 6 năm 2021

          Dự ước chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh tháng 6 năm 2021 tăng 10,01% so với cùng kỳ. Trong đó:

          Chỉ số sản xuất ngành khai khoáng: Tăng 12,97% so với cùng kỳ, tăng chủ yếu là ngành khai khoáng đá cát sỏi, cao lanh tăng 13,52%.

          Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Dự ước chỉ số sản xuất tăng 5,74% so với cùng kỳ. Một số ngành có chỉ số sản xuất tăng như: Ngành sản xuất giấy, bao bì bằng giấy tăng 172,34%; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu tăng 41,29%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại tăng 36,26%; sản xuất đồ uống tăng 30,85%; ngành dệt tăng 27,36%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 27,24%. Một số ngành có chỉ số giảm như: Ngành sản xuất hóa dược và dược liệu giảm 16,86%; chế biến thực phẩm giảm 16,65%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất giảm 10,44%;  in, sao chép bản ghi các loại giảm 5,32%; sản xuất trang phục giảm 4,03% so với cùng kỳ.

          Chỉ số sản xuất ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng hơi nước và điều hòa không khí: Dự ước chỉ số sản xuất tăng 15,27% so với cùng kỳ. Các nhà máy tiếp tục duy trì công suất chạy máy phát điện cung cấp nguồn năng lượng điện cho hệ thống điện quốc gia; đồng thời đảm bảo yêu cầu an toàn cho hệ thống hồ, đập thủy điện, duy trì dòng chảy và sản lượng điện sản xuất theo kế hoạch điều động của Trung tâm điều động điện quốc gia.

          Chỉ số sản xuất ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải: Giảm 0,91% so với cùng kỳ; trong đó khai thác, xử lý và cung cấp nước giảm 0,72% và hoạt động thu gom rác thải giảm 1,65% so với cùng kỳ.

Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 6 so với cùng kỳ (%).

 

Năm 2018

Năm 2019

Năm 2020

Năm 2021

Toàn ngành công nghiệp

106,35

109,47

104,93

110,01

1.     Khai khoáng

113,97

143,76

86,79

112,97

2.     Chế biến, chế tạo

106,67

114,54

105,04

105,74

3.     Sản xuất, phân phối điện ...

105,86

105,28

106,24

115,27

4.     Cung cấp nước; HĐ quản lý và xử lý rác thải, nước thải

107,15

107,91

107,65

99,09

          Sản phẩm công nghiệp chủ yếu trên địa bàn:

          Sản phẩm chủ yếu công nghiệp khai khoáng: Sản phẩm cao lanh đạt 14,1 ngàn tấn, tăng 14,47%; đá xây dựng đạt 272,4 ngàn m3, tăng 13,18% so với cùng kỳ.

          Một số sản phẩm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Sợi len lông cừu đạt 150 tấn, tăng 71,23%; bê tông trộn sẵn đạt 52,6 ngàn m3, tăng 45,61%; bia đóng lon đạt 8,6 triệu lít, tăng 31,02%; hạt điều khô đạt 107 tấn, tăng 10,14%; chè (trà) chế biến đạt 1.363 tấn, bằng 39,7%; vải lụa tơ tằm đạt 180 ngàn m2, giảm 12,09%; phân bón NPK đạt 13 ngàn tấn, giảm 10,42%; quả và hạt ướp lạnh đạt 774 tấn, giảm 8,01%; ôxit nhôm đạt 60 ngàn tấn, giảm 2,67% so với cùng kỳ.

          Sản phẩm điện sản xuất của 33 nhà máy trên địa bàn tỉnh đạt 655 triệu kwh, tăng 14,09%; sản phẩm nước sạch đạt 2,6 triệu m3, giảm 0,72% so với cùng kỳ.

          7.2. Tình hình sản xuất công nghiệp dự ước 6 tháng đầu năm 2021

          Dự ước chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp trên địa bàn Lâm Đồng 6 tháng đầu năm 2021 tăng 10,46% so với cùng kỳ. Trong đó:

          Chỉ số sản xuất ngành khai khoáng: Tăng 9,02% so với cùng kỳ, trong đó: ngành khai khoáng khác như khai thác cát, sỏi cao lanh tăng 9,35%.

          Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Tăng 9,14% so với cùng kỳ; chủ yếu tăng ở các ngành: Ngành sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 46,98%; sản xuất đồ uống tăng 36,09%; dệt tăng 33,53%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại tăng 19,74%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 17,62%; sản xuất trang phục tăng 7%; sản xuất kim loại tăng 2,16%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 0,15%. Riêng một số ngành giảm như: ngành sản xuất thuốc hóa dược giảm 20,89%; ngành sản xuất chế biến thực phẩm giảm 7,71%; ngành sản xuất giường, tủ, bàn ghế giảm 7,33%; ngành chế biến gỗ giảm 3,92% so với cùng kỳ.

          Chỉ số sản xuất ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng hơi nước và điều hòa không khí: tăng 12,94% so với cùng kỳ.

          Chỉ số sản xuất ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải: tăng 2,35% so với cùng kỳ; trong đó: khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 2,37% và hoạt động thu gom rác thải tăng 2,24% so với cùng kỳ.

Chỉ số sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ (%)

 

Năm 2018

Năm 2019

Năm 2020

Năm 2021

Toàn ngành công nghiệp

107,03

108,23

103,38

110,46

1.     Khai khoáng

100,6

123,24

105,62

109,02

2.     Chế biến, chế tạo

106,64

110,53

104,00

109,14

3.     Sản xuất, phân phối điện ...

107,81

104,78

102,11

112,94

4.     Cung cấp nước; HĐ quản lý và xử lý rác thải, nước thải

107,98

111,36

106,76

102,35

          Sản phẩm công nghiệp chủ yếu trên địa bàn:

          Sản phẩm ngành công nghiệp khai khoáng: Cao lanh đạt 83,6 ngàn tấn, tăng 26,08%; đá xây dựng đạt 1.100,4 ngàn m3, tăng 0,98% so với cùng kỳ.

          Một số sản phẩm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo như: Bia đạt 52,1 triệu lít, tăng 61,31%; bê tông trộn sẵn đạt 266,4 ngàn tấn, tăng 25,41%; rau ướp lạnh đạt 5.596 tấn, tăng 9%; hạt điều khô đạt 563 tấn, tăng 6,29%; ôxit nhôm đạt 344,3 ngàn tấn, tăng 2,16%; phân bón NPK đạt 50,6 ngàn tấn, tăng 0,19% so với cùng kỳ.

          Sản phẩm điện sản xuất của 33 nhà máy trên địa bàn tỉnh đạt 3.045 triệu kwh, tăng 12%, trong đó sản phẩm điện sản xuất phân bổ cho Lâm Đồng là 1.944 triệu kwh, tăng 5,66%; sản phẩm nước uống được đạt 16,5 triệu m3, tăng 2,37% so với cùng kỳ.

          Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Trong tháng 6 năm 2021 chỉ số tăng 5,63% so với cùng kỳ, tăng chủ yếu ở các ngành: Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 162,02%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại tăng 38,04%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 22,57%; dệt tăng 9,07%; chế biến gỗ, tre, nứa tăng 10,27%; sản xuất kim loại tăng 8,92%; in, sao chép bản ghi các loại tăng 8,84%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 2,25%. Nhìn chung chỉ số tiêu thụ của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong tháng 6 năm 2021 tăng so với cùng kỳ là một tín hiệu tốt trong khi nền kinh tế nói chung và sản xuất công nghiệp nói riêng đang chịu ảnh hưởng nặng nề do dịch Covid -19.

          Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 6 năm 2021: Chỉ số tồn kho tháng 6 năm 2021 tăng 10,82% so với cùng kỳ, chủ yếu tập trung ở các nhóm ngành: Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 57,82%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa tăng 52,46%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 25,48%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 23,21%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 16,26%; sản xuất kim loại tăng 10,64%; sản xuất đồ uống tăng 0,39%. Một số ngành có chỉ số số tồn kho giảm so với cùng kỳ như: Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 27,46%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 23,83%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế giảm 16,84%; ngành dệt giảm 14,27%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 9,08%.

          Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 6 năm 2021: Giảm 2,81% so với cùng kỳ. Chia theo ngành công nghiệp: Ngành khai khoáng giảm 2,35%; ngành công nghiệp chế biến chế tạo giảm 1,44%; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 9,94% và ngành cung cấp nước, xử lý rác thải  giảm 0,74% so với cùng kỳ.

          Xu hướng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp ngành chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh

          Xu hướng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp ngành chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh, hầu hết tất cả các chỉ tiêu đều có xu hướng khó khăn hơn là thuận lợi do đang trong thời gian ảnh hưởng của dịch covid-19 (đợt 4) nên một số công ty sản xuất cầm chừng do chưa có kế hoạch sản xuất trong năm 2021, hàng tồn kho còn nhiều, giá nguyên vật liệu tăng cao, không có hợp đồng sản xuất mới; tuy nhiên dự kiến xu hướng sản xuất kinh doanh quý II so với quý I có khả quan hơn.

          Xu hướng quý I/2021 so với quý IV/2020 các chỉ tiêu đều có xu hướng khó khăn hơn là tốt lên: Tình hình sản xuất kinh doanh có chỉ số khó khăn cao hơn thuận lợi là 11,94%; khối lượng sản xuất có chỉ số khó khăn cao hơn tốt lên là: 4,48%; số lượng đơn đặt hàng mới có chỉ số khó khăn cao hơn tốt lên là 9,09%; số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới có chỉ số khó khăn cao hơn tốt lên là 25,81%;  khối lượng thành phẩm tồn kho có chỉ số khó khăn cao hơn tốt lên là 16,42%; chỉ tiêu số lượng lao động bình quân có chỉ số khó khăn cao hơn tốt lên là: 10,45%.

          Dự kiến xu hướng sản xuất kinh doanh quý II/2021 so với quý I/2021 khả quan hơn. Cụ thể: tình hình sản xuất kinh doanh có chỉ số tốt lên cao hơn khó khăn là 11,94%; khối lượng sản xuất có chỉ số tốt lên cao hơn khó khăn là 11,94%; số lượng đơn đặt hàng mới có chỉ số tốt lên và khó khăn là 1,52%; số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới có chỉ số khó khăn cao hơn tốt lên là 6,25%; khối lượng thành phẩm tồn kho chỉ số khó khăn cao hơn tốt lên là 17,91%; số lượng lao động bình quân chỉ số khó khăn cao hơn tốt lên là 4,48%.

          8. Thương mại, dịch vụ 

         Dự ước tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tháng 6/2021 đạt 4.158,1 tỷ đồng, giảm 6,06% so với cùng kỳ. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ quý II năm 2021 ước đạt 13.720,5 tỷ đồng, tăng 22,11% so với cùng kỳ. Dự ước doanh thu 6 tháng đầu năm đạt 29.377,1 tỷ đồng, tăng 12,96% so với cùng kỳ.

          Doanh thu bán lẻ hàng hóa tháng 6/2021 ước đạt 3.534,5 tỷ đồng, tăng 12,99% so với cùng kỳ; một số nhóm hàng chủ yếu như xăng, dầu các loại đạt 384,9 tỷ đồng, tăng 82,9%; lương thực, thực phẩm đạt 1.575,3 tỷ đồng, tăng 11,65%; ô tô các loại đạt 32,7 tỷ đồng, bằng 59,28% so với cùng kỳ. Dự ước tổng mức bán lẻ hàng hóa quý II năm 2021 đạt 10.558,2 tỷ đồng, tăng 27,06% so với cùng kỳ; một số nhóm hàng có doanh thu tăng cao so với cùng kỳ như lương thực, thực phẩm đạt 4.571,5 tỷ đồng, tăng 20,1%; phương tiện đi lại đạt 1.085,6 tỷ đồng, tăng 98,93%; xăng, dầu các loại đạt 1.132,2 tỷ đồng, tăng 95,8% so với cùng kỳ. Dự ước tổng mức bán lẻ hàng hóa 6 tháng đầu năm 2021 đạt 22.022,7 tỷ đồng, tăng 18,04% so với cùng kỳ; một số nhóm hàng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu có mức tăng so với cùng kỳ khá cao như lương thực, thực phẩm đạt 9.381,5 tỷ đồng, tăng 19,75%; nhóm phương tiện đi lại đạt 2.039 tỷ đồng, tăng 64,35%; xăng, dầu các loại đạt 2.320,8 tỷ đồng, tăng 33,56% so với cùng kỳ.

          Doanh thu dịch vụ tiêu dùng khác tháng 6/2021 ước đạt 344,6 tỷ đồng, chỉ bằng 62,05% so với cùng kỳ; trong đó, doanh thu các ngành đều giảm mạnh, một số ngành chiếm tỷ trọng lớn như dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí đạt 151,1 tỷ đồng, bằng 64,71%; doanh thu dịch vụ kinh doanh bất động sản đạt 82,9 tỷ đồng, bằng 50,53% so với cùng kỳ. Doanh thu dịch vụ tiêu dùng khác quý II năm 2021 ước đạt 1.614,3 tỷ đồng, tăng 16,32% so với cùng kỳ; trong đó, doanh thu dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí đạt 854,5 tỷ đồng, tăng 50,73%; doanh thu dịch vụ kinh doanh bất động sản đạt 361,3 tỷ đồng, giảm 10,16%. Dự ước doanh thu dịch vụ tiêu dùng khác 6 tháng đầu năm 2021 đạt 3.686 tỷ đồng, tăng 8,11% so với cùng kỳ; một số ngành như doanh thu dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí đạt 1.887,1 tỷ đồng, tăng 27,22%; doanh thu dịch vụ kinh doanh bất động sản đạt 902 tỷ đồng, giảm 5,25%.

          Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tháng 6/2021 ước đạt 279 tỷ đồng bằng 37,57% so với cùng kỳ. Trong đó, doanh thu dịch vụ lưu trú đạt 11,8 tỷ đồng, bằng 10,26%; doanh thu dịch vụ ăn uống đạt 267,2 tỷ đồng, bằng 42,58% so với cùng kỳ. Tổng lượt khách ngủ qua đêm tại các cơ sở lưu trú đạt hơn 27,4 nghìn lượt khách, bằng 8,22% so với cùng kỳ. Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống quý II năm 2021 đạt 1.547,7 tỷ đồng, tăng 0,58% so với cùng kỳ. Trong đó, doanh thu dịch vụ lưu trú đạt 225 tỷ đồng, tăng 7,7%; doanh thu dịch vụ ăn uống đạt 1.322,7 tỷ đồng, giảm 0,54% so với cùng kỳ. Tổng lượt khách ngủ qua đêm tại các cơ sở lưu trú đạt gần 582 nghìn lượt khách, giảm 7,25% so với cùng kỳ. Dự ước doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 6 tháng đầu năm 2021 đạt 3.667,8 tỷ đồng, giảm 6,66% so với cùng kỳ. Trong đó, doanh thu dịch vụ lưu trú đạt 542,7 tỷ đồng, giảm 0,62%; doanh thu dịch vụ ăn uống đạt 3.125,1 tỷ đồng, giảm 7,63% so với cùng kỳ. Tổng lượt khách ngủ qua đêm tại các cơ sở lưu trú đạt hơn 1.568,3 nghìn lượt khách, giảm 6,67% so với cùng kỳ.

          9. Hoạt động vận tải

          Doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải ước tháng 6/2021 đạt hơn 267 tỷ đồng, giảm 16,35% so với cùng kỳ; trong đó, doanh thu vận tải đường bộ đạt 231,8 tỷ đồng, giảm 14,5%; doanh thu kho bãi và các hoạt động dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 35,2 tỷ đồng, giảm 26,77%. Doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải quý II năm 2021 đạt hơn 869,8 tỷ đồng, giảm 12,16% so với cùng kỳ; trong đó, doanh thu vận tải đường bộ đạt 759,3 tỷ đồng, giảm 12,99%; doanh thu kho bãi và các hoạt động dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 110,3 tỷ đồng, giảm 5,96%. Dự ước doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải 6 tháng đầu năm 2021 đạt hơn 1.860,1 tỷ đồng, tăng 3,71% so với cùng kỳ; trong đó, doanh thu vận tải đường bộ đạt 1.632,2 tỷ đồng, tăng 7,61%; doanh thu kho bãi và các hoạt động dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 227,7 tỷ đồng, giảm 17,66%.

          Doanh thu vận tải hành khách tháng 6/2021 ước đạt hơn 73 tỷ đồng, bằng 63,04%; khối lượng vận chuyển đạt 1.696 nghìn hành khách, bằng 62,13% và luân chuyển đạt 170,3 triệu hành khách.km, bằng 60,27% so với cùng kỳ. Doanh thu vận tải hành khách quý II năm 2021 ước đạt hơn 280,2 tỷ đồng, bằng 73,41%; khối lượng vận chuyển đạt 6.433 nghìn hành khách, bằng 75,88% và luân chuyển đạt 667,4 triệu hành khách.km, bằng 65,36% so với cùng kỳ. Dự ước doanh thu vận tải hành khách 6 tháng đầu năm 2021 ước đạt gần 662 tỷ đồng, tăng 8,68%; khối lượng vận chuyển đạt 14.912 nghìn hành khách, tăng 6,38% và luân chuyển đạt 1.688,5 triệu hành khách.km, tăng 13,82% so với cùng kỳ.

          Doanh thu vận tải hàng hoá tháng 6/2021 ước đạt hơn 158,7 tỷ đồng, tăng 2,27%; khối lượng hàng hoá vận chuyển đạt 1.459 nghìn tấn, tăng 55,25% và luân chuyển đạt 132,9 triệu tấn.km, tăng 1,52% so với cùng kỳ. Doanh thu vận tải hàng hoá quý II năm 2021 ước đạt hơn 479,2 tỷ đồng, giảm 2,43%; khối lượng hàng hoá vận chuyển đạt 5.296 nghìn tấn, tăng 13,53% và luân chuyển đạt 394,9 triệu tấn.km, giảm 9,33% so với cùng kỳ. Dự ước doanh thu vận tải hàng hoá 6 tháng đầu năm 2021 đạt hơn 970,4 tỷ đồng, tăng 6,89%; khối lượng hàng hoá vận chuyển đạt 9.961 nghìn tấn, tăng 46,83% và luân chuyển đạt 830,4 triệu tấn.km, tăng 7,44% so với cùng kỳ.

          10. Các vấn đề xã hội

          Trong 6 tháng đầu năm 2021, tình hình giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng tăng 69,86% so với 6 tháng đầu năm 2020. Tuy nhiên việc giải quyết việc làm đối với ngành du lịch, khách sạn, nhà hàng hết sức khó khan do ảnh hưởng của dịch Covid -19; đời sống đối với lao động trong các doanh nghiệp khó khan, việc làm không ổn điịnh; số người thiếu việc làm tăng; tai nạn giao thông có xu hướng tăng so với cùng kỳ.

          10.1. Lao động và việc làm

          Giải quyết việc làm[10]: Tổng số lao động được giải quyết việc làm trong 6 tháng năm 2021 là 12.400 người, đạt 42,7% kế hoạch, tăng 5.100 người so cùng kỳ; tạo việc làm mới cho 3.970 người, đạt 44,1% kế hoạch, tăng 470 người so cùng kỳ; xuất khẩu lao động 175 người, đạt 25% kế hoạch, tăng 60 người so cùng kỳ. Lao động đến từ các vùng có dịch Covid-19 được rà soát, cách ly theo quy định. Tư vấn, giới thiệu việc làm cho 3.650 người.

          Lao động có việc làm: Dự ước đến 30/6/2021 toàn tỉnh có 786.655 người đang làm việc, trong đó tỷ trọng lao động đang làm việc ở khu vực nông thôn là 62,1%, tương đương 488.513 người, cao gấp 1,62 lần so với khu vực thành thị với 298.142 người. Về chuyển dịch cơ cấu lao động theo 3 khu vực kinh tế: Khu vực nông, lâm nghiêp, thủy sản chiếm 66,4%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 8,3% và khu vực dịch vụ chiếm 25,3%, do chịu ảnh hưởng trực tiếp của đại dịch Covid-19, dẫn đến tỷ trọng lao động giảm 0,8% (4.278 người) so với cùng kỳ, phần lớn lao động dịch vụ khu vực thành thị khi mất việc họ đã trở về nông thôn sinh sống và làm việc, chờ cơ hội quay trở lại. Ngành du lịch, dịch vụ khách sạn nhà hàng, vận tải tiếp tục sẽ khó khăn trong giải quyết việc làm nếu dịch còn diễn biến phức tạp.

          Quy mô và tỷ lệ người thiếu việc làm và thất nghiệp: Ước đến thời điểm 30/6/2021 toàn tỉnh Lâm Đồng có 17.914 người thiếu việc làm (tỷ lệ 2,26%), trong đó khu vực nông thôn có 9.585 người (tỷ lệ là 1,94%), khu vực thành thị là 8.330 người (tỷ lệ là 2,78%); trước diễn biến dịch bệnh công việc làm thiếu ổn định dẫn đến nhu cầu muốn làm thêm việc còn rất cao. Tỷ lệ thất nghiệp ước đến thời điểm 30/6/2021 là 0,76% (6.014 người), trong đó tỷ lệ thất nghiệp thành thị là 1,46% (4.842 người), khu vực nông thôn chiếm tỷ lệ 0,33% (2.136 người).

          10.2. Đời sống dân cư và an sinh xã hội

          Đời sống dân cư: Trong 6 tháng đầu năm 2021, đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động hưởng lương có cuộc sống ổn định, trong dịp lễ, tết vừa qua cũng được hưởng tăng thêm bình quân mỗi người từ 1 triệu đến 13 triệu đồng. Đời sống cán bộ, công nhân viên chức khu vực nhà nước ổn định.

          Những người làm công ăn lương, lao động làm thuê trong các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất thuộc ngành nông, lâm nghiệp thu nhập và đời sống ổn định.

          Đối với người làm công ăn lương, lao động làm thuê trong các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất phi nông, lâm nghiệp, nhất là khu vực thành thị, nhìn chung đều bị ảnh hưởng lớn của dịch bệnh Covid-19, dẫn đến việc làm không ổn định, thu nhập và đời sống giảm.

          Tham gia BHY, bảo hiểm xã hội[11]: Tính đến 31/5/2021, tổng số đối tượng tham gia bảo hiểm y tế có 1.137.141 người, tỷ lệ bao phủ đạt 86,1% (dân số trung bình ước năm 2021 1.321.071 người), giảm 18.202 đối tượng so với 31/12/2020, giảm chủ yếu các đối tượng được hưởng từ chính sách hỗ trợ của Nhà nước đã hết hạn được hưởng và được cấp, bao gồm: người nghèo, cận nghèo, vùng khó khăn,…đặc biệt là đối tượng: Hộ nông, lâm, thủy sản có mức sống trung bình sau 5 năm 2016-2020 được hưởng, bước sang năm 2021 thẻ BHYT cấp cho các đối tượng này phải cấp theo tiêu chí mới. Tổng số đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội là 99.407 người (bảo hiểm xã hội bắt buộc là 85.769 người, bảo hiểm tự nguyện là 13.638 người), đạt tỷ lệ bao phủ 12,52% so với lực lượng lao động.

          Hộ nghèo, cận nghèo: Hiện hộ nghèo toàn tỉnh còn 4.488 hộ, chiếm tỷ lệ 1,32%, trong đó tỷ hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số còn 2.793 hộ (tỷ lệ 3,58%). Hộ cận nghèo còn chiếm tỷ lệ 3,34% (11.390 hộ), trong đó tỷ lệ hộ cận nghèo đồng bào dân tộc thiểu số còn 8,63% (6.728 hộ).

          Từ đầu năm đến nay không xy ra tình trạng thiếu đói giáp hạt, nên không phải cứu trợ. Trong dịp đón tết Tân Sửu 2021, các đối tượng gồm người có công, đối tượng chính sách, đối tượng bảo trợ xã hội, các hộ nghèo, cận nghèo được tặng quà và trợ cấp tết bằng tiền mặt và hiện vật, trị giá tổng số tiền là 50,7 tỷ đồng (tăng gần 6,5 tỷ so với năm 2020), tương ứng với 111.495 suất quà (năm 2020 là 115.232 suất) quà được tặng (kể cả tiền và hiện vật quy tiền).

          Trước những khó khăn chung của cả nước và tỉnh Lâm Đồng nói riêng, trong năm 2020 cho đến nay đã được sự quan tâm kịp thời của Nhà nước chi hỗ trợ cho các đối tượng thu nhập thấp, đối tượng bị tổn thương nhiều nhất do dịch bệnh Covid-19 (chủ yếu là hỗ trợ trong năm 2020) và tính đến ngày 10/02/2021 cơ bản đã chi trả đầy đủ cho các đối tượng được hưởng trợ cấp với gần 130 nghìn đối tượng, tổng số tiền hỗ trợ trên 126,5 tỷ đồng đã mang lại hiệu quả thiết thực.

          10.4. Chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới

          Tổng vốn đầu tư thực hiện chương trình nông thôn mới bằng nguồn ngân sách tỉnh năm 2021 là 150 tỷ đồng. Các địa phương đang tiếp tục phân bổ vốn đến các xã để triển khai thực hiện theo quy định, nhằm góp phần vào sự ổn định và phát triển đời sống và xã hội của người dân vùng nông thôn.

          Xã nông thôn mới: Đến nay, trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng có 104 xã đạt chuẩn nông thôn mới (đạt 93,7%), 18 xã nông thôn mới nâng cao (trong đó có 05 xã đạt tiêu chí kiểu mẫu về nông nghiệp công nghệ cao).

          Huyện nông thôn mới: Có 03 huyện đạt chuẩn nông thôn mới (Đơn Dương, Đức Trọng, Đạ Tẻh) và 02 thành phố (Đà Lạt và Bảo Lộc) hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới; 02 huyện Cát Tiên và Lâm Hà đang lập hồ sơ trình Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thẩm định theo quy định.

          10.5. Hoạt động văn hóa - tuyên truyền           

          Trong 6 tháng đầu năm 2021, công tác thông tin và tuyên truyền trên địa bàn tỉnh với nhiều hình thức phù hợp, nội dung phong phú, đa dạng, công tác tuyên truyền đã góp phần nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về nội dung, mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của các hoạt động phục vụ các sự kiện chính trị, các ngày lễ lớn của đất nước, địa phương, tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện nghiêm chỉnh các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tuyên truyền phòng chống dịch Covid-19 và ngày bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026.

          Toàn tỉnh đã tăng cường công tác tuyên truyền, cổ động trực quan thực hiện khoảng 2.353 pano với nhiều kích thước, 268 pano cụm, 1.140 pano hộp, 2.433 băng rôn, 10.527 phướn, 52.768 cờ các loại,18.460 tờ gấp… mừng Đảng, mừng Xuân Tân Sửu 2021, tuyên truyền bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XV và Đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026.

          Bảo tàng Lâm Đồng đón 17.674 lượt khách, với 44 khách quốc tế (trong đó: Bảo tàng Lâm Đồng đón 10.015 lượt khách; Di tích Nhà lao thiếu nhi Đà Lạt đón 4.233 lượt khách; Di tích khảo cổ Cát Tiên đón 2.426 lượt khách). Thư viện tỉnh cấp 4.881 thẻ bạn đọc, phục vụ 599.709 lượt bạn đọc và luân chuyển 214.417 lượt tài liệu; bổ sung 4.805 bản sách nâng tổng số tài liệu Thư viện tỉnh hiện có là 269.311 bản.

          Công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở: Tổ chức các hoạt động lồng ghép với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” với nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” trên địa bàn tỉnh. Qua đó góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, tạo môi trường văn hoá vui tươi, lành mạnh, nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân, khích lệ mọi người hăng hái  thi đua lao động sản xuất.

          10.6. Hoạt động thể dục - thể thao

          Thể thao thành tích cao: Tham gia giải việt dã leo núi Bà Rá lần thứ 27 tại tỉnh Bình Phước; vòng loại bóng đá U17 quốc gia; thi đấu 09 giải thể thao, với 90 vận động viên tham gia, kết quả đạt được 31 huy chương (12 huy chương vàng, 06 huy chương bạc, 13 huy chương đồng). Phối hợp tổ chức cuộc đua xe đạp toàn quốc tranh Cúp Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh lần thứ 33- năm 2021. Công tác đào tạo huấn luyện quản lý 14 lớp năng khiếu và đội tuyển bóng đá Nam.

          Thể dục thể thao quần chúng: Tổ chức giải thể thao học sinh thành phố Đà Lạt năm học 2020-2021, với hơn 1.200 vận động viên đến từ 39 đơn vị trường học cấp Tiểu học, Trung học cơ sở ở 10 môn thi đấu gồm: điền kinh, bóng bàn, cờ vua, cầu lông, kéo co, bóng đá, karate, vovinam, võ cổ truyền, taekwondo; giải bóng đá mini nữ các CLB tỉnh Lâm Đồng lần thứ I năm 2021; giải bóng chuyền nam và bóng chuyền hơi nữ chào mừng Đại hội Thể dục Thể thao các cấp tỉnh Lâm Đồng tiến tới Đại hội Thể dục Thể thao toàn quốc lần thứ IX năm 2021; giải Vovinam các câu lạc bộ tỉnh. Hỗ trợ tổ chức hội thao cho các ngành trong tỉnh thi đấu các bộ môn quần vợt, cờ tướng, cầu lông, bóng bàn, bóng chuyền và bóng đá mini 5 người nam - nữ.

          10.7. Hoạt động giáo dục - đào tạo[12]

          Mặc dù ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 nhưng toàn ngành giáo dục vẫn triển khai các nội dung chương trình học, nhiệm vụ công tác trọng tâm đảm bảo đúng kế hoạch. Các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, thi khoa học kỹ thuật quốc gia, hội khỏe phù đổng đều đạt giải cao.

          Năm học 2020-2021: Tổ chức cuộc thi khoa học kỹ thuật dành cho học sinh trung học có 187 học sinh tham gia vòng thi cấp tỉnh (với 101 dự án) kết quả đạt 10 giải nhất, 24 giải nhì, 41 giải ba và 112 giải tư; kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh THPT  có 1.874 học sinh dự thi, kết quả đạt 36 giải nhất, 196 giải nhì, 260 giải ba, 356 giải khuyến khích; thi chọn học sinh giỏi cấp tỉnh lớp 9 có 1.059 học sinh dự thi, kết quả có 21 giải nhất, 126 giải nhì, 155 giải ba, 229 đạt giải khuyến khích; hội thi giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh có 499 giáo viên tham gia, có 385 giáo viên được công nhận, 47 giáo viên đạt giải; hội thi giáo viên làm Tổng phụ trách Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh giỏi cấp tỉnh có 52 giáo viên được công nhận, 13 giáo viên đạt giải.

          Năm học 2020-2021 có 12/12 huyện, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi, đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3, chuẩn phổ cập THCS mức độ 2. Hiện toàn tỉnh Lâm Đồng có 704 trường, từ mầm non đến THPT, với gần 331 ngàn học sinh.

          Chuẩn bị các điều kiện tổ chức thi tốt nghiệp THPT năm 2021, triển khai công tác tư vấn tuyển sinh và tuyển sinh năm 2021, hướng dẫn các đơn vị đăng ký Đại học, Cao đẳng, xét tuyển dự bị đại học, xét tuyển thẳng 2021 theo lịch của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

          10.8. Hoạt động y tế[13]  

          Trong 6 tháng đầu năm 2021, ngành y tế đã triển khai các biện pháp giám sát, phòng chống cúm A (H1N1), (H5N1),.. và bệnh tiêu chảy cấp nguy hiểm, sốt rét, sốt xuất huyết, phát hiện 138 ổ dịch sốt xuất huyết nhỏ và đã tổ chức xử lý kịp thời. Đặc biệt, trong thời gian qua đã tập trung triển khai các biện pháp phòng, chống dịch viêm đường hô hấp cấp do SARS-Cov-2 theo chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Y tế. Trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng không có trường hợp bệnh dương tính với Covid-19.

          Công tác phòng chữa bệnh từ đầu năm đến 18/6/2021: Bệnh phong phát hiện 01 bệnh nhân phong mới, quản lý 135 bệnh nhân; bệnh sốt rét có 6 trường hợp mắc; bệnh lao có 250 bệnh nhân mới; 246 bệnh nhân sốt xuất huyết. 

          Công tác bảo vệ sức khoẻ tâm thần cộng đồng: Toàn tỉnh quản lý và điều trị cho 1.234 bệnh nhân tâm thần phân liệt, trong đó có 1.170 bệnh nhân tâm thần phân liệt được điều trị đều, đạt tỷ lệ 94,8%, có 1.195 bệnh nhân tâm thần phân liệt được phục hồi chức năng tại cộng đồng, đạt tỷ lệ 96,8% và 1.565 bệnh nhân động kinh, trong đó có 1.515 bệnh nhân động kinh được điều trị đều, đạt tỷ lệ 96,8%.

          Công tác tiêm chủng mở rộng: Từ đầu năm đến nay trên địa bàn toàn tỉnh, đã tiêm chủng đầy đủ cho 7.390 trẻ dưới 1 tuổi; tiêm viêm gan B trước 24 giờ cho 9.100 trẻ sơ sinh. Tiêm phòng uốn ván 2+ cho 7.366 phụ nữ có thai. Tổ chức tiêm vắc xin sởi mũi 2 cho 7.588 trẻ em 18 tháng tuổi; tiêm bạch hầu - ho gà - uốn ván (DTC) mũi 4 cho 7.440 trẻ 18 tháng tuổi. Tiêm vắc xin viêm não Nhật Bản cho trẻ từ 12-30 tháng mũi 1: 8.996 trẻ; mũi 2: 8.674 trẻ và mũi 3: 8.434 trẻ.

          Công tác phòng chống HIV/AIDS: Trong 6 tháng đầu năm 2021 toàn tỉnh có 33 trường hợp nhiễm HIV mới đưa vào quản lý (tích luỹ: 1.707 trường hợp); có 01 trường hợp chuyển AIDS mới (tích luỹ: 288 trường hợp) và có 06 trường hợp tử vong do AIDS (tích luỹ: 595 trường hợp).

          Chương trình mục tiêu vệ sinh an toàn thực phẩm: Trong 6 tháng đầu năm 2021, toàn tỉnh có 01 vụ ngộ độc xảy ra với 29 người mắc, ngay sau khi có triệu chứng ngộ độc, Trung tâm Y tế huyện Lạc Dương, Trung tâm Y tế thành phố Đà Lạt tổ chức giám sát, điều tra ca bệnh và thực hiện các biện pháp can thiệp kịp thời, không có trường hợp tử vong.

          Công tác phòng chống dịch bệnh Covid-19: Được triển khai mang lại hiệu quả, đến nay trên địa bàn tỉnh đã tiêm vắc xin phòng Covid-19 được 8.347/8.520 đối tượng, đạt 98% kế hoạch. Triển khai kế hoạch 6 tháng cuối năm 2021 thực hiện tiêm vắc xin phòng Covid-19 cho 120 nghìn đối tượng.

          10.9. Tai nạn giao thông[14]

          Trong tháng, Ban An toàn giao thông tỉnh phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh và các tổ chức đoàn thể, Sở Giao thông vận tải, Sở Thông tin và Truyền thông, Phòng Cảnh sát giao thông - Công an tỉnh, Ban An toàn giao thông các huyện, thành phố thuộc tỉnh, Ga Đà Lạt tổ chức tuyên truyền 3.900 cẩm nang “An toàn giao thông đường thủy nội địa”, 10.800 cẩm nang “Phòng, chống tai nạn giao thông do uống rượu, bia”, 4.000 cẩm nang “Điều khiển xe mô tô, xe gắn máy an toàn”, 48.000 tờ rơi “Xây dựng văn hóa giao thông vì môi trường giao thông an toàn, văn minh, thân thiện”.

          Từ ngày 15/5/2021 đến 14/6/2021 lực lượng cảnh sát giao thông toàn tỉnh xử phạt 37 trường hợp vi phạm theo chuyên đề xử lý xe chở hàng quá tải trọng, quá khổ giới hạn, tự ý cải tạo phương tiện trên đường bộ. Tăng cường bảo đảm trật tự an toàn giao thông gắn với phòng chống dịch Covid-19, tổ chức hoạt động chốt số 01-Madaguôi trên Quốc lộ 20 theo Quyết định số 1373/QĐ-UBND ngày 29/5/2021 của UBND tỉnh.

          Tình hình tai nạn giao thông trên địa bàn tỉnh tính từ ngày 15/5/2021 đến ngày 14/6/2021 xảy ra 04 vụ, giảm 01 vụ; số người chết là 02 người, giảm 03 người; số người bị thương là 04 người, tăng 03 người. Tính từ ngày 15/12/2020 đến ngày 14/6/2021, tình hình tai nạn giao thông trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 51 vụ, tăng 13 vụ; số người chết là 35 người, tăng 07 người; số người bị thương là 29 người, tăng 05 người so với cùng kỳ. Đăng ký mới cho 715 ôtô và 4.336 môtô. Tổng số phương tiện đang quản lý: 76.410 xe ôtô; 1.117.993 xe môtô; 103 phương tiện đường thủy. Lực lượng công an toàn tỉnh phát hiện, xử lý 3.869 trường hợp; tổng số tiền xử phạt là 4 tỷ đồng; tước 177 giấy phép lái xe; tạm giữ 09 ô tô, 219 mô tô; trong đó có 26 trường hợp vi phạm nồng độ cồn, 03 trường hợp dương tính với chất ma túy.

          10.10. Thiệt hại do thiên tai

          Tình hình thiệt hại do thiên tai 6 tháng đầu năm nay bị mưa đá, lốc xoáy kéo theo mưa lớn đã gây thiệt hại về tài sản gồm: nhà sập và bị cuốn trôi 3 căn, tốc mái hư hại 84 căn, diện tích hoa màu bị hư hại 0,5 ha và 120 cây mắc ca đang vào thời kỳ cho thu hoạch bị gãy đổ; thiệt hại về người: 01 người bị thương và sét đánh chết 01 người. Ước tổng thiệt hại về tài sản khoảng: 2,5 tỷ đồng.     

          10.11. Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ

          Trong 6 tháng đầu năm 2021 trên địa bàn tỉnh xảy ra 05 vụ cháy, số người bị thương 03 người, giá trị thiệt hại về tài sản khoảng 2,6 tỷ đồng. Về vi phạm môi trường cơ quan chức năng chưa phát hiện vụ nào.

          11. Một số nhiệm vụ chủ yếu cần triển khai trong 6 tháng cuối năm 2021

          Nhằm triển khai thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ năm 2021 mà Nghị quyết HĐND tỉnh đề ra, các ngành, các cấp cần tiếp tục tập trung triển khai các nhiệm vụ chủ yếu sau:

          Một là, tập trung thực hiện “nhiệm vụ kép” là vừa phòng chống dịch, vừa phát triển kinh tế - xã hội. Thực hiện các biện pháp hỗ trợ, góp phần tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội; nỗ lực phấn đấu cao nhất thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2021, bảo đảm quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội.

          Hai là, thúc đẩy mạnh mẽ cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy nhanh thực hiện các dự án công trình trọng điểm.

          Ba là, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh. Tập trung duy trì các thị trường xuất khẩu quan trọng, đồng thời mở rộng thị trường mới, ưu tiên những mặt hàng có giá trị cao, mặt hàng có lợi thế của tỉnh làm động lực thúc đẩy tăng trưởng. Tìm kiếm thị trường tiêu thụ mới, thúc đẩy tiêu thụ, chế biến trong nước các mặt hàng nông sản xuất khẩu giảm sút do tác động của dịch bệnh Covid-19.

          Bốn là, đầu tư đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị - nông thôn. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với phát triển khoa học, công nghệ, đáp ứng yêu cầu cuộc Cánh mạng công nghiệp lần thứ tư. Chú trọng các lĩnh vực văn hóa - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.

          Năm là, thực hiện hiêu quả chính sách an sinh xã hội, lao động, việc làm. Giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế.

          Sáu là, thực hiện các giải pháp và tăng cường công tác quản lý và điều hành ngân sách, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Tổ chức triển khai các giải pháp giãn, hoãn, gia hạn thời hạn nộp thuế, tiền thuê đất cho doanh nghiệp, các đối tượng bị tác động trực tiếp bởi dịch Covid-19 theo hướng dẫn của Chính phủ và tình hình thực tế tại địa phương.

          Bảy là, tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, dịch bệnh, ứng phó với biến đổi khí hậu.



[1] Theo Quyết định số 1394/QĐ-UBND ngày 01/6/2021 của UBND tỉnh Lâm Đồng phê duyệt Kế hoạch Cơ cấu lại ngành nông nghiệp hướng đến toàn diện, bền vững và hiện đại năm 2021.

[2] Nguồn: Sở Tài chính tỉnh Lâm Đồng

[3] Nguồn: Ngân hàng Nhà nước tỉnh Lâm Đồng

[4] Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Lâm Đồng.

[5] Trên cây cà phê: sâu keo mùa thu gây hại 156 ha tại Đơn Dương, Lạc Dương (6 ha nhiễm nặng); bọ xít muỗi gây hại nhẹ 1.453 ha cà phê chè tại Lạc Dương, Đà Lạt. Trên cây điều bệnh thán thư gây hại 5.278,7 ha tại 3 huyện phía Nam; bọ xít muỗi gây hại 4.292,7 ha; Trên cà chua, bệnh xoăn lá virus ít biến động gây hại 283,8 ha tại Đức Trọng, Đơn Dương (45,2 ha nhiễm nặng). Trên hoa cúc bệnh virus sọc thân gây hại 14 ha tại Đà Lạt.

[6] Đàn bò sữa đạt 24.447 con, tăng 10,24% (+2.271 con) so với cùng kỳ. Trong đó, bò cái cho sữa ước đạt 16.972 con, chiếm 69,42% tổng đàn bò sữa; số lượng bò sữa tập trung chủ yếu ở các địa phương Đơn Dương, Đức Trọng, Di Linh và thành phố Bảo Lộc.

[7] Trong đó: lợn thịt 257.668 con, chiếm 66,37%, tăng 2,44% (+6.129 con) so với cùng kỳ; lợn nái 50.727 con, chiếm 13,07%; lợn con chưa tách mẹ 78.930 con, chiếm 20,33% trong tổng đàn lợn. Tổng đàn tăng so với cùng kỳ do đã khống chế được dịch bệnh trên đàn lợn.

 

[8] Hiện có 39 tỉnh đang xảy ra các ổ dịch bệnh (LMLM, tai xanh, dịch tả lợn Châu Phi, viêm da nổi cục) chưa qua 21 ngày.

[9] Chi thị số 45/CT-TTg ngày 31/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ về Tổ chức phong trào “Tết trồng cây” và tăng cường công tác bảo vệ, phát triển rừng ngay từ đầu năm 2021, Văn bản số 50/BNN-TCLN ngày 06/01/2021 của Bộ Nông nghiệp và PTNT về việc thực hiện Chỉ thị số 45/CT-TTg.

Văn bản số 2120/UBND-LN ngày 8/4/2021 của UBND tỉnh Lâm Đồng về việc tổ chức Lễ phát dộng trồng 50 triệu cây xanh giai đoạn 2020-2025 trên địa bàn tỉnh;

 

[10] Theo báo cáo nhanh từ Sở Lao động - Thương binh và  Xã hội tỉnh Lâm Đồng.

[11] Theo báo cáo nhanh từ Bảo hiểm Xã hội tỉnh Lâm Đồng.

[12] Theo báo cáo nhanh của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Lâm Đồng.

[13] Theo báo cáo nhanh của Sở Y tế tỉnh Lâm Đồng.

[14] Theo báo cáo nhanh của Ban An Toàn giao thông tỉnh Lâm Đồng.

 

 


Các tin khác
© Copyright 2012 CỤC THỐNG KÊ TỈNH LÂM ĐỒNG
10 Đường 3 Tháng 4, Phường 3, TP. Đà Lạt