Tình hình kinh tế - xã hội
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2019

1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tháng 4/2019 nhìn chung ổn định. Trong tháng, các địa phương tập trung vào chăm sóc cây trồng vụ đông xuân ở phía Bắc, thu hoạch lúa, hoa màu vụ đông xuân và gieo trồng lúa hè thu ở phía Nam. Tình hình dịch tả lợn châu Phi bước đầu hạ nhiệt, tuy vậy giá thịt lợn vẫn giảm so với tháng trước. Trong 4 tháng đầu năm, ngành thủy sản duy trì mức tăng khá về sản lượng nhưng nuôi cá tra trong tháng không thuận lợi do sản lượng cá tra xuất khẩu vào thị trường Mỹ và Trung Quốc giảm, các doanh nghiệp giảm giá thu mua cá nguyên liệu.

a) Nông nghiệp

Tính đến ngày 15/4, cả nước gieo cấy được 3.116,6 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 100,6% cùng kỳ năm trước. Các địa phương phía Bắc cơ bản hoàn thành gieo trồng lúa đông xuân với diện tích đạt 1.112,6 nghìn ha, bằng 98,9% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng Đồng bằng sông Hồng đạt 515,1 nghìn ha, bằng 98% (giảm 10,5 nghìn ha) do một số địa phương chuyển đổi cơ cấu sản xuất và chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Hiện nay, lúa đông xuân tại các địa phương phía Bắc sinh trưởng và phát triển tốt, đang trong thời kỳ đứng cái và làm đòng. Tuy nhiên, dự báo thời gian tới nhiệt độ tăng khiến sâu bệnh gây hại trên lúa diễn biến phức tạp, nhất là bệnh khô vằn, bệnh đạo ôn, rầy các loại..., ngành nông nghiệp cần theo dõi sát diễn biến tình hình sâu bệnh, xử lý kịp thời các ổ bệnh để không ảnh hưởng đến sự phát triển của cây lúa. Tại các địa phương phía Nam, gieo trồng lúa đông xuân đạt 2.004 nghìn ha, bằng 101,5% cùng kỳ năm 2018, trong đó diện tích tăng chủ yếu ở Cà Mau với 37,9 nghìn ha do chuyển đổi mùa vụ từ lúa mùa sang lúa đông xuân.

Đến trung tuần tháng Tư, các địa phương phía Nam đã thu hoạch được 1.648,7 nghìn ha lúa đông xuân, chiếm 82,3% diện tích xuống giống và bằng 107,8% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 1.526,2 nghìn ha, chiếm 95,1% và bằng 108%. Tuy nhiên, nắng nóng kéo dài trên diện rộng gây ảnh hưởng tới năng suất lúa, làm giảm sản lượng lúa đông xuân toàn vùng so với cùng kỳ năm trước. Theo báo cáo sơ bộ, năng suất lúa đông xuân vùng Đồng bằng sông Cửu Long năm nay ước tính đạt 67,5 tạ/ha, giảm 1,4 tạ/ha so với vụ đông xuân trước; sản lượng đạt 10,8 triệu tấn, giảm 5,5 nghìn tấn.

Trên những diện tích lúa đông xuân đã thu hoạch, các địa phương tiến hành vệ sinh đồng ruộng, cày ải, phơi đất để xuống giống vụ hè thu. Tính đến ngày 15/4, các địa phương phía Nam gieo sạ được 497,9 nghìn ha lúa hè thu, bằng 112,4% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 484,9 nghìn ha, bằng 111,6%, tiến độ gieo trồng lúa hè thu năm nay nhanh hơn cùng kỳ do vụ đông xuân được gieo trồng và thu hoạch sớm. Hiện nay, lúa hè thu đang ở giai đoạn mạ đến làm đòng, cây lúa sinh trưởng và phát triển tốt. Tuy nhiên, dự báo vụ hè thu năm nay gặp khó khăn do thời tiết nắng nóng kéo dài, đặc biệt nguy cơ hạn hán, thiếu nước tại các tỉnh Trung Bộ, Tây Nguyên trong các tháng mùa khô nên ngành nông nghiệp cần quản lý chặt lịch thời vụ xuống giống, khuyến cáo các địa phương áp dụng kỹ thuật canh tác để hạn chế tác động của khô hạn đến sản xuất, đồng thời bảo đảm nguồn nước tưới cho lúa.

Tính đến giữa tháng Tư, các địa phương trên cả nước đã gieo trồng được 404,8 nghìn ha ngô, bằng 99,8% cùng kỳ năm trước; 67,5 nghìn ha khoai lang, bằng 95,7%; 134,2 nghìn ha lạc, bằng 97,2%; 16,6 nghìn ha đậu tương, bằng 107,8% và 590,4 nghìn ha rau đậu, bằng 105,7%. Nhìn chung, các cây màu được gieo trồng đúng thời vụ, sinh trưởng và phát triển tốt.

Chăn nuôi trâu, bò trong tháng ổn định, chăn nuôi gia cầm đạt khá, riêng chăn nuôi lợn còn gặp khó khăn, mặc dù vừa qua một số địa phương công bố hết dịch tả lợn châu Phi nhưng do dịch bệnh lan rộng đã gây ảnh hưởng đến phát triển đàn và kết quả chăn nuôi. Ước tính tháng Tư, đàn lợn cả nước giảm 0,8% so với cùng kỳ năm trước; đàn trâu giảm 2,9%; đàn bò tăng 3,1%; đàn gia cầm tăng 6,8%.

b) Lâm nghiệp

Trong tháng Tư, diện tích rừng trồng tập trung của cả nước ước tính đạt 27,1 nghìn ha, tăng 0,4% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 6,8 triệu cây, giảm 12,3%; sản lượng gỗ khai thác đạt 1.228 nghìn m3, tăng 4,1%; sản lượng củi khai thác đạt 1,4 triệu ste, giảm 2,2%. Một số tỉnh có sản lượng gỗ khai thác tăng cao: Quảng Trị ước tính đạt 166,2 nghìn m3, tăng 6,2% so với cùng kỳ năm trước; Quảng Ngãi đạt 138 nghìn m3, tăng 6,2%; Nghệ An đạt 128,4 nghìn m3, tăng 12,3%. Tính chung 4 tháng đầu năm, diện tích rừng trồng tập trung ước tính đạt 59 nghìn ha, tăng 0,9% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 22,5 triệu cây, giảm 3,7%; sản lượng gỗ khai thác đạt 3.942 nghìn m3, tăng 4,3%; sản lượng củi khai thác đạt 5,3 triệu ste, giảm 1,7%.

Công tác bảo vệ, phòng chống cháy rừng tiếp tục được triển khai có hiệu quả. Trong tháng Tư, cả nước có 90,8 ha rừng bị thiệt hại, giảm 44,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 30,8 ha, giảm 67,2%; diện tích rừng bị chặt phá là 60 ha, giảm 13,6%. Tính chung 4 tháng đầu năm nay, diện tích rừng bị thiệt hại là 200 ha, giảm 44,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 59,8 ha, giảm 62,7%; diện tích rừng bị chặt phá là 140,2 ha, giảm 30,4%.

c) Thủy sản

Sản lượng thủy sản tháng Tư ước tính đạt 689,8 nghìn tấn, tăng 5,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 520 nghìn tấn, tăng 5,8%; tôm đạt 68,2 nghìn tấn, tăng 5,2%; thủy sản khác đạt 101,6 nghìn tấn, tăng 5,5%.

Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng Tư ước tính đạt 348,4 nghìn tấn, tăng 6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 255,1 nghìn tấn, tăng 5,5%; tôm đạt 56 nghìn tấn, tăng 7,5%; thủy sản khác đạt 37,3 nghìn tấn, tăng 7,2%. Nuôi cá tra không gặp thuận lợi do giá cá tra nguyên liệu có xu hướng giảm từ tháng Ba[1], sản lượng cá tra xuất khẩu vào các thị trường chính (Mỹ và Trung Quốc) giảm, các doanh nghiệp xuất khẩu giảm giá thu mua cá nguyên liệu để đảm bảo lợi nhuận, tuy nhiên ở mức giá hiện tại người nuôi vẫn có lãi từ 1.000-2.500 đồng/kg. Sản lượng cá tra trong tháng ước tính đạt 116,4 nghìn tấn, tăng 6,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó An Giang đạt 109 nghìn tấn, tăng 10,7%; Đồng Tháp đạt 33,7 nghìn tấn, tăng 4,5%; Bến Tre đạt 13,4 nghìn tấn, tăng 8%. Nuôi tôm nước lợ bắt đầu cho thu hoạch, mô hình nuôi tôm siêu thâm canh được mở rộng nên năng suất nuôi đạt khá cao. Sản lượng tôm sú tháng Tư ước tính đạt 20,8 nghìn tấn, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng tôm thẻ chân trắng ước tính đạt 31,7 nghìn tấn, tăng 8,9%.

Sản lượng thủy sản khai thác tháng Tư ước tính đạt 341,4 nghìn tấn, tăng 5,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 264,9 nghìn tấn, tăng 6%; tôm đạt 12,2 nghìn tấn, giảm 3,9%. Thời tiết trong tháng tương đối thuận lợi cho hoạt động khai thác biển, sản lượng thủy sản khai thác biển đạt 326,5 nghìn tấn, tăng 5,7% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 4 tháng đầu năm, sản lượng thủy sản ước tính đạt 2.156,5 nghìn tấn, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 994,6 nghìn tấn, tăng 5,3%; sản lượng thủy sản khai thác đạt 1.161,9 nghìn tấn, tăng 4,9% (sản lượng khai thác biển đạt 1.111,6 nghìn tấn, tăng 5,2%).

2. Sản xuất công nghiệp

Sản xuất công nghiệp tháng Tư và 4 tháng đầu năm 2019 đạt kết quả tăng khá so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành chế biến, chế tạo đóng vai trò chủ chốt, thúc đẩy tăng trưởng chung tiếp tục duy trì mức tăng trưởng hai con số; ngành sản xuất và phân phối điện bảo đảm đáp ứng tốt cho hoạt động sản xuất và sử dụng của người dân với tốc độ tăng giá trị sản xuất cao hơn mức tăng chung của toàn ngành.

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 4/2019 ước tính tăng 0,6% so với tháng trước và tăng 9,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng tăng 2%; ngành chế biến, chế tạo tăng 10,5%; sản xuất và phân phối điện tăng 9,4%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,8%.

Tính chung 4 tháng đầu năm 2019, IIP ước tính tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng 10,7% của cùng kỳ năm 2018 nhưng cao hơn mức tăng 7,4% và 6,6% của cùng kỳ năm 2016 và năm 2017. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,9% (cùng kỳ năm trước tăng 12,9%), đóng góp 8,3 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 9,2%, đóng góp 0,8 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,3%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng bằng cùng kỳ năm trước (khai thác than tăng 13%, khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 4,1%).

Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất 4 tháng đầu năm 2019 tăng cao so với cùng kỳ năm trước, đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng chung của toàn ngành công nghiệp: Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 77,5%; sản xuất kim loại tăng 40,6%; sản xuất xe có động cơ tăng 18,6%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 14%; khai thác quặng kim loại và chế biến gỗ, sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa cùng tăng 13,8%; khai thác than cứng và than non tăng 13%; dệt tăng 12,1%. Một số ngành có mức tăng thấp hoặc giảm: Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 5,4%; thoát nước và xử lý nước thải tăng 4,8%; sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 4,3%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 1,9% (cùng kỳ năm trước tăng 23,6%); sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc, thiết bị giảm 2,3%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 4%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 4,1%; khai khoáng khác (đá, cát, sỏi…) giảm 1,4%.

Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu 4 tháng năm nay tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Xăng, dầu tăng 70,3%; sắt, thép thô tăng 67,1%; ti vi tăng 42,6%; khí hóa lỏng (LPG) tăng 29,8%; vải dệt từ sợi nhân tạo tăng 19,5%; ô tô tăng 18,3%; sơn hóa học tăng 15,8%; than sạch tăng 12,8%; bia tăng 12,2%; phân u rê tăng 12,1%. Một số sản phẩm tăng thấp hoặc giảm: Thép thanh, thép góc tăng 3,1%; khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 0,4%; thức ăn cho gia súc giảm 0,7%; xe máy giảm 3,1%; phân hỗn hợp NPK giảm 5%; đường kính giảm 6,5%; dầu thô khai thác giảm 8,3%; linh kiện điện thoại giảm 24,6%.

Trong 4 tháng đầu năm 2019, chỉ số sản xuất công nghiệp của 59/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tăng so với cùng kỳ năm trước, trong đó Thanh Hóa dẫn đầu với mức tăng 42,8% do Công ty TNHH Lọc hóa dầu Nghi Sơn mới đi vào sản xuất từ giữa năm 2018; Trà Vinh tăng 38,3% do Công ty Nhiệt điện Duyên hải tăng sản lượng điện sản xuất; Hà Tĩnh tăng 34,9% chủ yếu do đóng góp của Tập đoàn Formosa. Chỉ số sản xuất công nghiệp 4 tháng so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương có quy mô công nghiệp lớn như sau: Hải Phòng tăng 23%; Quảng Ninh tăng 13,2%; Vĩnh Phúc tăng 12,9%; Hải Dương tăng 9,5%; Đồng Nai tăng 7,8%; Quảng Nam tăng 7,7%; Bình Dương tăng 7,5%; Thái Nguyên tăng 7,3%; Hà Nội tăng 6,8%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 6,6%; Cần Thơ tăng 6,2%; Đà Nẵng tăng 4,1%. Các địa phương có chỉ số sản xuất công nghiệp giảm so với cùng kỳ năm trước: Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 0,4% do khai thác dầu thô tiếp tục giảm; Gia Lai giảm 5,6% do sản xuất đường giảm; Hòa Bình giảm 11,3% chủ yếu do sản lượng điện sản xuất giảm; Bắc Ninh giảm 11,9% do sản xuất sản phẩm linh kiện điện thoại giảm mạnh.

Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 1/4/2019 tăng 1,4% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 2,3% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm 0,4%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 2,1%; doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 2,8%. Tại thời điểm trên, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng giảm 0,7% so với cùng thời điểm năm trước; ngành chế biến, chế tạo tăng 2,4%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 3%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,9%.

Lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 1/4/2019 so với cùng thời điểm năm trước của một số địa phương có quy mô công nghiệp lớn như sau: Hải Phòng tăng 8,7%; Bình Dương tăng 6,2%; Quảng Nam tăng 5,6%; Hải Dương tăng 2,6%; Đồng Nai tăng 2,5%; Cần Thơ tăng 1,6%; Hà Nội và Vĩnh Phúc cùng tăng 1,1%; Quảng Ninh tăng 0,7%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 0,3%; Thái Nguyên giảm 0,3%; Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 7%[2]; Bắc Ninh giảm 9,6%[3] và Đà Nẵng giảm 12%[4].

3. Tình hình đăng ký doanh nghiệp[5]

Số doanh nghiệp thành lập mới và số vốn đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới trong Tư đạt cao nhất trong 4 tháng đầu năm nay. Trong tháng 4/2019, cả nước có 14.854 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 167 nghìn tỷ đồng, tăng 19% về số doanh nghiệp và tăng 30,3% về số vốn đăng ký so với tháng trước[6]; vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 11,2 tỷ đồng, tăng 27,3%; tổng số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới là 131,4 nghìn người, giảm 14,5%. Trong tháng, cả nước còn có 2.714 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 44,4% so với tháng trước; 2.495 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 81,7%; có 1.904 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 1,2%; 1.189 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 23,9%.

Tính chung 4 tháng đầu năm nay, cả nước có 43.305 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 542,4 nghìn tỷ đồng, tăng 4,9% về số doanh nghiệp và tăng 31,7% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2018[7]; vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 12,5 tỷ đồng, tăng 25%. Nếu tính cả 872 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của các doanh nghiệp thay đổi tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ sung thêm vào nền kinh tế trong 4 tháng năm 2019 là 1.414,4 nghìn tỷ đồng. Bên cạnh đó, còn có 17.463 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 52,6% so với cùng kỳ năm trước, nâng tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 4 tháng năm nay lên gần 60,8 nghìn doanh nghiệp. Tổng số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới trong 4 tháng năm nay là 449,1 nghìn người, tăng 35,2% so với cùng kỳ năm trước.

Theo lĩnh vực hoạt động, trong 4 tháng đầu năm nay phần lớn các lĩnh vực có số doanh nghiệp thành lập mới tăng so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Có 16,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới trong ngành bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy (chiếm 37,2% tổng số doanh nghiệp thành lập mới), tăng 14%; 5,8 nghìn doanh nghiệp xây dựng (chiếm 13,3%), tăng 1,8%; 5,5 nghìn doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm 12,7%), tăng 8,3%; 3,6 nghìn doanh nghiệp khoa học, công nghệ, dịch vụ tư vấn, thiết kế, quảng cáo và chuyên môn khác (chiếm 8,4%), tăng 13,5%; 2,5 nghìn doanh nghiệp dịch vụ việc làm, du lịch, cho thuê máy móc thiết bị, đồ dùng và các dịch vụ hỗ trợ khác (chiếm 5,8%), tăng 4,6%; gần 2,5 nghìn doanh nghiệp kinh doanh bất động sản (chiếm 5,7%), tăng 24%... Một số lĩnh vực có số doanh nghiệp thành lập mới tiếp tục giảm so với cùng kỳ năm trước: Dịch vụ lưu trú và ăn uống có 2 nghìn doanh nghiệp (chiếm 4,6%), giảm 4,3%; tài chính, ngân hàng và bảo hiểm có 448 doanh nghiệp (chiếm 1%), giảm 13,3%; khai khoáng có 200 doanh nghiệp (chiếm 0,5%), giảm 6,1% và vận tải, kho bãi có 1 doanh nghiệp, giảm 99,9%.

Trong 4 tháng đầu năm nay, hầu hết các vùng kinh tế có số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng so với cùng kỳ năm trước: Vùng Đồng bằng sông Hồng có 13,2 nghìn doanh nghiệp, tăng 8,3% (vốn đăng ký đạt 130,4 nghìn tỷ đồng, tăng 11,6%); Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 6,2 nghìn doanh nghiệp, tăng 7,7% (vốn đăng ký 54,9 nghìn tỷ đồng, giảm 1,8%); Tây Nguyên 1,1 nghìn doanh nghiệp, tăng 10,7% (vốn đăng ký 13 nghìn tỷ đồng, tăng 122,6%); Đông Nam Bộ 18 nghìn doanh nghiệp, tăng 3% (vốn đăng ký 291,9 nghìn tỷ đồng, tăng 55,4%); Đồng bằng sông Cửu Long 3,1 nghìn doanh nghiệp, tăng 1,5% (vốn đăng ký 30,5 nghìn tỷ đồng, tăng 3,3%). Riêng vùng Trung du và miền núi phía Bắc có số doanh nghiệp thành lập mới đạt 1,7 nghìn doanh nghiệp, giảm 7,2% so với cùng kỳ năm trước (vốn đăng ký 21,7 nghìn tỷ đồng, tăng 35,3%).

Số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn trong 4 tháng đầu năm nay là 16.984 doanh nghiệp, tăng 19,7% so với cùng kỳ năm trước. Theo lĩnh vực hoạt động, có 6,9 nghìn doanh nghiệp ngành bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy tạm ngừng kinh doanh có thời hạn (chiếm 40,4%), tăng 24,3% so với cùng kỳ năm trước; có 2,4 nghìn doanh nghiệp xây dựng (chiếm 14,2%), tăng 10,6%; 2,1 nghìn doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm 12,1%), tăng 15,7%; có 993 doanh nghiệp khoa học, công nghệ, dịch vụ tư vấn, thiết kế, quảng cáo và chuyên môn khác (chiếm 5,8%), tăng 19,5%; có 990 doanh nghiệp vận tải, kho bãi (chiếm 5,8%), tăng 16,9%; có 842 doanh nghiệp dịch vụ lưu trú và ăn uống (chiếm 5%), tăng 16,5%... Trong 4 tháng đầu năm nay còn có 17.265 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, trong đó có 8.935 doanh nghiệp bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp theo chương trình chuẩn hóa dữ liệu từ năm 2018, chiếm 51,8% tổng số doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể; doanh nghiệp thông báo giải thể là 4.333 doanh nghiệp, chiếm 25% và 3.997 doanh nghiệp chờ làm thủ tục giải thể, chiếm 23,2%.

Số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể trong 4 tháng đầu năm 2019 là 5.305 doanh nghiệp, tăng 12,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó có 4.793 doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng (chiếm 90,3% tổng số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể), tăng 11,6%. Doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể tập trung chủ yếu ở các lĩnh vực: Bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy có 2,1 nghìn doanh nghiệp (chiếm 40%), tăng 18,3% so với cùng kỳ năm trước; công nghiệp chế biến, chế tạo có 566 doanh nghiệp (chiếm 10,7%), giảm 15,3%; xây dựng có 501 doanh nghiệp (chiếm 9,4%), giảm 2,7%.

4. Đầu tư

Mặc dù vốn đầu tư thực hiện từ ngân sách Nhà nước tháng Tư cao hơn so với tháng trước (tăng 13,2%) và so với cùng kỳ năm trước (tăng 1,2%) nhưng tốc độ tăng so với cùng kỳ các năm giai đoạn 2016-2019 có sự sụt giảm rõ rệt[8], cho thấy tình hình thực hiện vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước tháng Tư nói riêng và 4 tháng đầu năm 2019 nói chung chưa có dấu hiệu tích cực. Trong khi đó, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục khởi sắc với mức kỷ lục về cả số dự án và vốn đăng ký cấp mới, tính đến thời điểm 20/4/2019, số dự án cấp mới là 1.082 dự án với tổng vốn đăng ký đạt 5,3 tỷ USD, cao nhất trong vòng 4 năm trở lại đây[9].

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Tư ước tính đạt 22,3 nghìn tỷ đồng, tăng 1,2% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn Trung ương 2,7 nghìn tỷ đồng, giảm 30,4%; vốn địa phương 19,6 nghìn tỷ đồng, tăng 7,8%. Tính chung 4 tháng đầu năm nay, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 73,4 nghìn tỷ đồng, bằng 21,3% kế hoạch năm và tăng 3% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2018 bằng 20,3% và tăng 9,8%), gồm có:

- Vốn Trung ương quản lý đạt 9 nghìn tỷ đồng, bằng 19,5% kế hoạch năm và giảm 30,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giao thông Vận tải đạt 1.935 tỷ đồng, bằng 26,3% và giảm 57,5%; Bộ Y tế 808 tỷ đồng, bằng 15,3% và tăng 21,7%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 530 tỷ đồng, bằng 16,1% và giảm 56,3%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 206 tỷ đồng, bằng 16% và giảm 8,7%; Bộ Tài nguyên và Môi trường 189 tỷ đồng, bằng 14,4% và giảm 29,1%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 145 tỷ đồng, bằng 19,4% và giảm 10,9%; Bộ Khoa học và Công nghệ 67 tỷ đồng, bằng 21,9% và tăng 49,3%; Bộ Xây dựng 42 tỷ đồng, bằng 16,8% và giảm 16,9%; Bộ Công Thương 39 tỷ đồng, bằng 15,8% và giảm 14,2%; Bộ Thông tin và Truyền thông 28 tỷ đồng, bằng 17,5% và tăng 15,2%.

- Vốn địa phương quản lý đạt 64,4 nghìn tỷ đồng, bằng 21,6% kế hoạch năm và tăng 10,5% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 43,6 nghìn tỷ đồng, bằng 20,7% và tăng 9,4%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 17,4 nghìn tỷ đồng, bằng 23% và tăng 13,1%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 3,4 nghìn tỷ đồng, bằng 27% và tăng 11,9%. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước 4 tháng đầu năm 2019 của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như sau: Hà Nội đạt 9.667 tỷ đồng, bằng 19,5% kế hoạch năm và tăng 14,9% so với cùng kỳ năm trước; thành phố Hồ Chí Minh 4.712 tỷ đồng, bằng 12,8% và tăng 13,7%; Quảng Ninh 2.241 tỷ đồng, bằng 19,4% và tăng 35%; Thanh Hóa 2.191 tỷ đồng, bằng 28,1% và tăng 14,5%; Bà Rịa - Vũng Tàu 1.998 tỷ đồng, bằng 30,3% và tăng 17,5%; Quảng Nam 1.870 tỷ đồng, bằng 25,2% và tăng 14,8%; Hải Phòng 1.800 tỷ đồng, bằng 19,9% và tăng 5,8%; Vĩnh Phúc 1.697 tỷ đồng, bằng 27,2% và tăng 2%.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20/4/2019 thu hút 1.082 dự án cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 5.345 triệu USD, tăng 22,5% về số dự án và tăng 50,4% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2018. Bên cạnh đó, có 395 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 2.110,6 triệu USD, giảm 6% so với cùng kỳ năm trước. Như vậy, tổng số vốn đăng ký cấp mới và vốn tăng thêm trong 4 tháng đầu năm đạt 7.455,6 triệu USD, tăng 28,6% so với cùng kỳ năm 2018. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 4 tháng ước tính đạt 5,7 tỷ USD, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm 2018. Trong 4 tháng còn có 2.416 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn là 7,14 tỷ USD, gấp 3,2 lần so với cùng kỳ năm 2018, trong đó có 605 lượt góp vốn, mua cổ phần làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị vốn góp là 5,13 tỷ USD và 1.811 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị 2,01 tỷ USD.

Trong 4 tháng năm nay, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất với số vốn đăng ký của các dự án được cấp phép mới đạt 3.958,4 triệu USD, chiếm 74,1% tổng vốn đăng ký cấp mới; ngành hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 528,6 triệu USD, chiếm 9,9%; các ngành còn lại đạt 858 triệu USD, chiếm 16%. Nếu tính cả vốn đăng ký bổ sung của các dự án đã cấp phép từ các năm trước thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong 4 tháng đạt 5.738,7 triệu USD, chiếm 77% tổng vốn đăng ký; ngành hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 538,4 triệu USD, chiếm 7,2%; các ngành còn lại đạt 1.178,5 triệu USD, chiếm 15,8%. Đối với hình thức góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 4.756,2 triệu USD, chiếm 66,6% tổng giá trị góp vốn; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 562,2 triệu USD, chiếm 7,9%; các ngành còn lại đạt 1.817,4 triệu USD, chiếm 25,5%.

Cả nước có 45 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới trong 4 tháng đầu năm, trong đó Tây Ninh có số vốn đăng ký lớn nhất với 520,3 triệu USD, chiếm 9,7% tổng vốn đăng ký cấp mới[10]; tiếp đến là Bình Dương 495,6 triệu USD, chiếm 9,3%; Bắc Ninh 479,4 triệu USD, chiếm 9%; thành phố Hồ Chí Minh 349,4 triệu USD, chiếm 6,5%; Tiền Giang 346,9 triệu USD, chiếm 6,5%; Hải Dương 288,8 triệu USD, chiếm 5,4%; Đà Nẵng 256,1 triệu USD, chiếm 4,8%; Đồng Nai 248,6 triệu USD, chiếm 4,7%; Hải Phòng 231,2 triệu USD, chiếm 4,3%; Phú Yên 216,8 triệu USD, chiếm 4,1%; Bà Rịa - Vũng Tàu 200,9 triệu USD, chiếm 3,8%.

Trong số 51 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam trong 4 tháng, Trung Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với 1.314,7 triệu USD, chiếm 24,6% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Xin-ga-po 699,7 triệu USD, chiếm 13,1%; Đặc khu Hành chính Hồng Công (TQ) 693,4 triệu USD, chiếm 13%; Hàn Quốc 691 triệu USD, chiếm 12,9%; Nhật Bản 614,7 triệu USD, chiếm 11,5%; Thái Lan 325,7 triệu USD, chiếm 6,1%; Đài Loan 265,5 triệu USD, chiếm 5%; Quần đảo Vigin thuộc Anh 211,9 triệu USD, chiếm 4%.

Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong 4 tháng năm nay có 44 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn của phía Việt Nam là 96 triệu USD; 9 dự án điều chỉnh vốn với số vốn tăng thêm là 53,5 triệu USD. Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và tăng thêm) 4 tháng năm 2019 đạt 149,5 triệu USD, trong đó lĩnh vực hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ đạt 81,8 triệu USD, chiếm 54,7% tổng vốn đầu tư; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm đạt 36,1 triệu USD, chiếm 24,1%; bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác đạt 16,5 triệu USD, chiếm 11%; dịch vụ lưu trú và ăn uống đạt 7 triệu USD, chiếm 4,7%. Trong 4 tháng có 23 quốc gia, vùng lãnh thổ nhận đầu tư của Việt Nam, trong đó Tây Ban Nha là nước dẫn đầu với 59,8 triệu USD, chiếm 40% tổng vốn đầu tư; Cam-pu-chia 37,9 triệu USD, chiếm 25,4%; Ma-lai-xi-a 13,9 triệu USD, chiếm 9,3%; Hoa Kỳ 12,6 triệu USD, chiếm 8,4%.

5. Thu, chi ngân sách nhà nước

Trong những tháng đầu năm, thu ngân sách nhà nước duy trì tiến độ khả quan, chi ngân sách đáp ứng kịp thời các yêu cầu đầu tư phát triển, chi trả nợ, đảm bảo quốc phòng, an ninh và hoạt động của bộ máy nhà nước.

Tổng thu ngân sách nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/4/2019 ước tính đạt 421 nghìn tỷ đồng, bằng 29,8% dự toán năm, trong đó thu nội địa 337,3 nghìn tỷ đồng, bằng 28,7%; thu từ dầu thô 15,3 nghìn tỷ đồng, bằng 34,4%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 67,7 nghìn tỷ đồng, bằng 35,8%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước đạt 43,9 nghìn tỷ đồng, bằng 24,7% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 54,7 nghìn tỷ đồng, bằng 25,6%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước 69,5 nghìn tỷ đồng, bằng 28,8%; thu thuế thu nhập cá nhân 37,1 nghìn tỷ đồng, bằng 32,8%; thu thuế bảo vệ môi trường 12,9 nghìn tỷ đồng, bằng 18,7%; thu tiền sử dụng đất 29,8 nghìn tỷ đồng, bằng 33,1%.

Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/4/2019 ước tính đạt 376,4 nghìn tỷ đồng, bằng 23% dự toán năm, trong đó chi thường xuyên đạt 274,8 nghìn tỷ đồng, bằng 27,5%; chi đầu tư phát triển 65,3 nghìn tỷ đồng, bằng 15,2%; chi trả nợ lãi 35,1 nghìn tỷ đồng, bằng 28,1%.

6. Thương mại, giá cả, vận tải và du lịch

a) Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Hoạt động thương mại dịch vụ trong 4 tháng đầu năm nay tiếp tục xu hướng tăng khá, thị trường giá cả ổn định, cân đối cung cầu các loại vật tư quan trọng và hàng tiêu dùng thiết yếu được bảo đảm, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 4 tháng đạt tốc độ tăng cao nhất kể từ năm 2015 trở về đây[11].

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 4/2019 ước tính đạt 400 nghìn tỷ đồng, tăng 2,3% so với tháng trước và tăng 12% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 306,6 nghìn tỷ đồng, tăng 2,2% và tăng 13,1%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 47,7 nghìn tỷ đồng, tăng 3,1% và tăng 9,9%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 3,6 nghìn tỷ đồng, tăng 2% và tăng 13,2%; doanh thu dịch vụ khác đạt 42,1 nghìn tỷ đồng, tăng 1,8% và tăng 6,8%.

Tính chung 4 tháng đầu năm 2019, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 1.583,7 nghìn tỷ đồng, tăng 11,9% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 9% (cùng kỳ năm 2018 tăng 8,9%).

Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa 4 tháng đầu năm ước tính đạt 1.215,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 76,8% tổng mức và tăng khá với mức tăng 13,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Lương thực, thực phẩm tăng 14%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 12,9%; may mặc tăng 12,4%; phương tiện đi lại tăng 11,1%; vật phẩm văn hoá, giáo dục tăng 10,7%. Một số địa phương có mức tăng khá: Trà Vinh tăng 19,8%; Phú Thọ tăng 17,9%; Quảng Nam tăng 16,8%; Bình Dương tăng 16,4%; Quảng Ninh tăng 15,4%; Hải Phòng tăng 14,4%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 13,5%; Hà Nội tăng 13,1%.

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 4 tháng đầu năm ước tính đạt 187,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,8% tổng mức và tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu của Quảng Ninh tăng 15,2%; Đà Nẵng tăng 14,4%; Cần Thơ tăng 13,8%; Hải Phòng tăng 13,5%; Lào Cai tăng 11,9%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 11,2%; Gia Lai tăng 10,4%; Hà Nội tăng 9%.

Doanh thu du lịch lữ hành 4 tháng ước tính đạt 14,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,9% tổng mức và tăng 13,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Quảng Ninh tăng 33,6%; Khánh Hòa tăng 16,5%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 13,6%; Bà Rịa - Vũng Tàu tăng 11,9%; Lâm Đồng tăng 11,3%; Cần Thơ tăng 11%; Thái Nguyên tăng 10,1%; Hà Nội tăng 8,4%.

Doanh thu dịch vụ khác 4 tháng ước tính đạt 165,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,5% tổng mức và tăng 5,7% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó doanh thu của Vĩnh Long tăng 18,5%; Bình Định tăng 16,6%; Quảng Ninh tăng 14,3%; Khánh Hòa tăng 13,8%; Đà Nẵng tăng 12,6%; Cần Thơ tăng 10,3%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 8,5%; Hà Nội tăng 4,3%.

b) Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa 4 tháng đầu năm 2019 ước tính đạt 156,8 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt 78,76 tỷ USD, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm trước; nhập khẩu đạt 78,05 tỷ USD, tăng 10,4%. Cán cân thương mại hàng hóa mặc dù duy trì thặng dư trong 4 tháng với mức xuất siêu ước tính đạt 711 triệu USD nhưng thấp hơn nhiều so với mức 3,7 tỷ USD của cùng kỳ năm 2018.

Xuất khẩu hàng hóa

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thực hiện tháng 3/2019 đạt 22.780 triệu USD, cao hơn 380 triệu USD so với số ước tính, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện cao hơn 124 triệu USD; điện thoại và linh kiện cao hơn 86 triệu USD; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng cao hơn 82 triệu USD; máy ảnh, máy quay phim và linh kiện cao hơn 79 triệu USD; sắt thép cao hơn 66 triệu USD; rau quả cao hơn 65 triệu USD; xăng dầu cao hơn 55 triệu USD; thủy sản cao hơn 54 triệu USD; hàng dệt may thấp hơn 166 triệu USD; giày dép thấp hơn 40 triệu USD; phương tiện vận tải và phụ tùng thấp hơn 38 triệu USD.

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 4/2019 ước tính đạt 19,9 tỷ USD, giảm 12,6% so với tháng trước[12], trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 6,12 tỷ USD, giảm 4,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 13,78 tỷ USD, giảm 15,7%. Nhiều mặt hàng xuất khẩu trong tháng Tư có kim ngạch giảm so với tháng trước: Điện thoại và linh kiện giảm 27,6%; dầu thô giảm 15,3%; điện tử, máy tính và linh kiện giảm 11,5%; thủy sản giảm 9,3%; hàng dệt may giảm 9,2%; gỗ và sản phẩm gỗ giảm 3,7%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Tư tăng 7,5%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 9,8%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 6,6%. Một số mặt hàng xuất khẩu có giá trị tăng: Gỗ và sản phẩm gỗ tăng 22,5%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 16,2%; điện thoại và linh kiện tăng 12%; giày dép tăng 11,4%; hàng dệt may tăng 7,1%.

Tính chung 4 tháng đầu năm 2019, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 78,76 tỷ USD, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 23,33 tỷ USD, tăng 10,5%, chiếm 29,6% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 55,43 tỷ USD, tăng 4%, chiếm 70,4% (tỷ trọng giảm 1,2 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước).

Trong 4 tháng có 16 mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 81,2% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó một số mặt hàng có giá trị tăng so với cùng kỳ năm trước: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 9,6 tỷ USD, tăng 12,6%; hàng dệt may đạt 9,4 tỷ USD, tăng 9,8%; giày dép đạt 5,3 tỷ USD, tăng 13,4%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 5,3 tỷ USD, tăng 4,1%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 3,1 tỷ USD, tăng 17,8%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 2,9 tỷ USD, tăng 5,7%. Mặc dù điện thoại và linh kiện có giá trị xuất khẩu lớn nhất đạt 16 tỷ USD, chiếm 20,4% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu nhưng giảm 0,2% so với cùng kỳ năm trước; thủy sản đạt 2,4 tỷ USD, giảm 1,3%. Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản 4 tháng năm nay giảm so với cùng kỳ năm trước: Cà phê đạt 1,1 tỷ USD, giảm 22,6% (lượng giảm 13,5%); hạt điều đạt 884 triệu USD, giảm 16,9% (lượng tăng 5%); gạo đạt 866 triệu USD, giảm 21,7% (lượng giảm 7,9%); hạt tiêu đạt 270 triệu USD, giảm 12% (lượng tăng 18,6%). Riêng rau quả đạt 1,4 tỷ USD, tăng 5,5%; cao su đạt 564 triệu USD, tăng 15% (lượng tăng 26,1%).

Về thị trường hàng hóa xuất khẩu 4 tháng đầu năm 2019, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 17,8 tỷ USD, tăng 28,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó điện thoại và linh kiện tăng 104,9%; giày dép tăng 9,4%; hàng dệt may tăng 8,5%. Tiếp đến là thị trường EU đạt 13,7 tỷ USD, tăng 2,8%, trong đó máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 19,7%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 9,6%; giày dép tăng 7%. Trung Quốc đạt 10,4 tỷ USD, giảm 5,8%, trong đó hàng thủy sản giảm 31,5%; điện thoại và linh kiện giảm 62,3%. Thị trường ASEAN đạt 8,4 tỷ USD, tăng 7,3%, trong đó hàng dệt may tăng 36,7%; sắt thép tăng 9,7%. Hàn Quốc đạt 6,2 tỷ USD, tăng 7,3%, trong đó hàng dệt may tăng 10%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 9,4%; điện thoại và linh kiện tăng 7,1%. Nhật Bản đạt 6,1 tỷ USD, tăng 6,6%, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện tăng 33,9%; giày dép tăng 27,6%; hàng dệt may tăng 6,9%.

Nhập khẩu hàng hóa

Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu thực hiện tháng 3/2019 đạt 21.154 triệu USD, thấp hơn 646 triệu USD so với số ước tính, trong đó máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng thấp hơn 158 triệu USD; chất dẻo thấp hơn 67 triệu USD; linh kiện phụ tùng ô tô thấp hơn 52 triệu USD; điện thoại và linh kiện thấp hơn 38 triệu USD; nguyên phụ liệu dệt, may, giày dép thấp hơn 25 triệu USD; sắt thép và dầu thô cùng thấp hơn 23 triệu USD; bông và giấy các loại cùng thấp hơn 18 triệu USD.

Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Tư ước tính đạt 20,6 tỷ USD, giảm 2,6% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 8,8 tỷ USD, giảm 2,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 11,8 tỷ USD, giảm 3%. Kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng giảm so với tháng trước: Chất dẻo giảm 5,5%; xăng dầu giảm 7,8%; điện tử, máy tính và linh kiện giảm 9,5%; điện thoại và linh kiện giảm 11,6%; ô tô giảm 12,3%. So với cùng kỳ năm 2018, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Tư tăng 17,6%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 18,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 17%. Một số mặt hàng có kim ngạch tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Ô tô tăng 65,1%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 46,4%; sản phẩm chất dẻo tăng 25,5%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 21,8%; chất dẻo tăng 13,4%.

Tính chung 4 tháng đầu năm 2019, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước tính đạt 78,05 tỷ USD, tăng 10,4% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 32,80 tỷ USD, tăng 14,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 45,25 tỷ USD, tăng 7,6%.

Trong 4 tháng có 17 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 76,3% tổng kim ngạch nhập khẩu, trong đó một số mặt hàng tăng so với cùng kỳ năm trước: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 15,8 tỷ USD (chiếm 20,2% tổng kim ngạch nhập khẩu), tăng 20%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 11,6 tỷ USD, tăng 15,2%; vải đạt 4,1 tỷ USD, tăng 8%; sắt thép đạt 3,1 tỷ USD, tăng 3,9%; chất dẻo đạt 2,9 tỷ USD, tăng 3,9%; ô tô đạt 2,4 tỷ USD, tăng 95,6%; sản phẩm chất dẻo đạt 2 tỷ USD, tăng 12,3%. Bên cạnh đó, một số mặt hàng có giá trị giảm so với cùng kỳ năm 2018: Điện thoại và linh kiện đạt 3,6 tỷ USD, giảm 15,5%; kim loại thường đạt 2,1 tỷ USD, giảm 9,5%.

   Về thị trường hàng hóa nhập khẩu 4 tháng đầu năm 2019, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 22,3 tỷ USD, tăng 18,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện tăng 80,9%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 28,5%; vải tăng 13,3%. Tiếp theo là thị trường Hàn Quốc đạt 15,5 tỷ USD, tăng 3,1%, trong đó máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 9,3%; sắt thép tăng 5,4%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 4,3%. Thị trường ASEAN đạt 10,8 tỷ USD, tăng 9,2%, trong đó ô tô nguyên chiếc tăng 619,3%; sắt thép tăng 372,3%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 11,3%. Nhật Bản đạt 5,7 tỷ USD, giảm 1,4%, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện giảm 2,6%; sắt thép giảm 15,6%; điện thoại và linh kiện giảm 85%. Thị trường EU đạt 4,6 tỷ USD, tăng 14,8%, trong đó ô tô nguyên chiếc tăng 714,6%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 23,8%. Hoa Kỳ đạt 4,2 tỷ USD, tăng 14,3%, trong đó thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu tăng 16,1%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 9,4%.

Cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng Ba xuất siêu 1,6 tỷ USD[13]; quý I xuất siêu 1,4 tỷ USD; tháng Tư ước tính nhập siêu 700 triệu USD. Tính chung 4 tháng năm 2019 tiếp tục xuất siêu 711 triệu USD[14] (cùng kỳ năm trước xuất siêu 3,7 tỷ USD), trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 9,46 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 10,17 tỷ USD.

c) Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ

Việc tăng giá xăng dầu, giá điện có ảnh hưởng trực tiếp đến tăng chỉ số giá tiêu dùng trong tháng, tuy nhiên diễn biến của dịch tả lợn châu Phi tác động đến tâm lý người tiêu dùng và việc kiên định chính sách tiền tệ linh hoạt giữ vững mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô của Chính phủ góp phần kiềm chế lạm phát. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4/2019 tăng 0,31% so với tháng trước, CPI bình quân 4 tháng đầu năm 2019 tăng 2,71% so với cùng kỳ năm 2018, đây là mức tăng bình quân 4 tháng đầu năm thấp nhất trong 3 năm gần đây[15].

Trong mức tăng 0,31% của CPI tháng 4/2019 so với tháng trước có 9/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng. Nhóm giao thông có mức tăng cao nhất 4,29%, chủ yếu do ảnh hưởng từ 2 đợt điều chỉnh tăng giá xăng, dầu vào thời điểm 2/4/2019 và thời điểm 17/4/2019 (tác động làm CPI chung tăng 0,41%); giá vé tàu hỏa tăng 2,76% do nhu cầu đi lại vào dịp nghỉ lễ Giỗ tổ và nghỉ lễ 30/4-1/5. Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,6%[16]; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,11%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,1%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,08%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,06%; giáo dục tăng 0,05% do chỉ số giá nhóm sách giáo khoa tăng 0,76%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,01%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,15%. Hai nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại có chỉ số giá giảm: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,57%, trong đó lương thực giảm 0,39% chủ yếu do giá gạo xuất khẩu giảm; thực phẩm giảm 0,87% do giá hầu hết các mặt hàng trong nhóm giảm[17]; nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,07%.

Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 4 tháng đầu năm 2019 tăng 2,71% so với bình quân cùng kỳ năm 2018. CPI tháng 4/2019 tăng 1% so với tháng 12/2018 và tăng 2,93% so với cùng kỳ năm trước.

Lạm phát cơ bản tháng 4/2019 tăng 0,09% so với tháng trước và tăng 1,88% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân 4 tháng đầu năm nay tăng 1,84% so với bình quân cùng kỳ năm 2018.

Chỉ số giá vàng tháng 4/2019 giảm 0,5% so với tháng trước; tăng 2,78% so với tháng 12/2018 và giảm 1,27% so với cùng kỳ năm 2018. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 4/2019 giảm 0,02% so với tháng trước; giảm 0,46% so với tháng 12/2018 và tăng 1,89% so với cùng kỳ năm 2018.

d) Vận tải hành khách và hàng hóa

Vận tải hành khách tháng Tư ước tính đạt 419,1 triệu lượt khách, tăng 1,1% so với tháng trước và 19,3 tỷ lượt khách.km, tăng 1,9%. Tính chung 4 tháng đầu năm 2019, vận tải hành khách đạt 1.656,1 triệu lượt khách, tăng 10,9% so với cùng kỳ năm trước và 75,1 tỷ lượt khách.km, tăng 9,6%, trong đó vận tải trong nước đạt 1.650,2 triệu lượt khách, tăng 10,9% và 58,7 tỷ lượt khách.km, tăng 9,8%; vận tải ngoài nước đạt gần 6 triệu lượt khách, tăng 10,2% và 16,3 tỷ lượt khách.km, tăng 8,9%. Xét theo ngành vận tải, đường bộ đạt 1565 triệu lượt khách, tăng 11,1% so với cùng kỳ năm trước52,3 tỷ lượt khách.km, tăng 10,7%; đường thủy nội địa đạt 68,2 triệu lượt khách, tăng 7,8% và 1.329,8 triệu lượt khách.km, tăng 7,2%; đường biển đạt 2,6 triệu lượt khách, tăng 6,3% và 152,4 triệu lượt khách.km, tăng 6,9%; đường hàng không đạt 17,7 triệu lượt khách, tăng 8% và 20,1 tỷ lượt khách.km, tăng 8,3%; riêng vận tải đường sắt đạt 2,6 triệu lượt khách, giảm 9,3% và 1.120,3 triệu lượt khách.km, giảm 8,6%.

Vận tải hàng hóa tháng Tư ước tính đạt 135,5 triệu tấn, tăng 0,9% so với tháng trước và 25,9 tỷ tấn.km, tăng 1,0%. Tính chung 4 tháng, vận tải hàng hóa đạt 547,6 triệu tấn, tăng 8,7% so với cùng kỳ năm trước và 104,1 tỷ tấn.km, tăng 6,6%, trong đó vận tải trong nước đạt 536,7 triệu tấn, tăng 8,8% và 58,8 tỷ tấn.km, tăng 9,7%; vận tải ngoài nước đạt 10,9 triệu tấn, tăng 1,7% và 45,3 tỷ tấn.km, tăng 2,8%. Xét theo ngành vận tải, đường bộ đạt 421,4 triệu tấn, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm trước và 28,2 tỷ tấn.km, tăng 9,1%; đường thủy nội địa đạt 97,9 triệu tấn, tăng 6,4% và 20,6 tỷ tấn.km, tăng 5%; đường biển đạt 26,5 triệu tấn, tăng 5,9% và 53,8 tỷ tấn.km, tăng 6,3%; đường sắt đạt 1,7 triệu tấn, giảm 12,9% và 1,1 t tấn.km, giảm 11,7%; đường hàng không đạt 134,3 nghìn tấn, tăng 16,1% và 338 triệu tấn.km, tăng 16,7%.

e) Khách quốc tế đến Việt Nam

Việt Nam tiếp tục trở thành điểm thu hút khách du lịch quốc tế trong 4 tháng đầu năm 2019, lượng khách liên tục đạt trên mức 1,4 triệu lượt mỗi tháng kể từ đầu năm. Khách quốc tế đến nước ta trong tháng Tư ước tính đạt 1.468,8 nghìn lượt người, tăng 4,2% so với tháng trước, trong đó khách đến bằng đường hàng không tăng 5,9%; bằng đường bộ giảm 10,3%; bằng đường biển tăng mạnh 120,5%. So với cùng kỳ năm trước, khách quốc tế đến nước ta tháng 4/2019 tăng 9,5%, trong đó khách đến từ châu Á tăng 11,5%; từ châu Âu tăng 4,3%; khách đến từ châu Mỹ và châu Úc cùng có mức tăng 1%; từ châu Phi tăng 16,4%.

Tính chung 4 tháng đầu năm 2019, khách quốc tế đến Việt Nam đạt 5.968,9 nghìn lượt người, tăng 7,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến bằng đường hàng không đạt 4.674 nghìn lượt người, tăng 5,4%; bằng đường bộ đạt 1.175,4 nghìn lượt người, tăng 21,1%; bằng đường biển đạt 119,5 nghìn lượt người, giảm 15,9%.

Trong 4 tháng đầu năm hầu hết khách đến từ các thị trường chính đều tăng, chiếm tỷ trọng lớn nhất và có tốc độ tăng cao nhất vẫn là khách đến từ các nước châu Á với gần 4.522,5 nghìn lượt người, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ Hàn Quốc đạt gần 1.445,9 nghìn lượt người, tăng 23,2%; Nhật Bản 302,8 nghìn lượt người, tăng 8,2%; Đài Loan 284,3 nghìn lượt người, tăng 25%; Ma-lai-xi-a 205,5 nghìn lượt người, tăng 15,7%; Thái Lan 174,8 nghìn lượt người, tăng 46,5%; Xin-ga-po 94,5 nghìn lượt người, tăng 3,1%; khách đến từ Trung Quốc tuy vẫn đạt mức cao nhất với 1.707,8 nghìn lượt người nhưng giảm 3,8% so với cùng kỳ năm trước.

Khách đến từ châu Âu ước đạt trên 891 nghìn lượt người, tăng 5,7% so cùng kỳ năm trước, trong đó: Khách đến từ Pháp đạt 119,5 nghìn lượt người, tăng 4,5%;  Vương quốc Anh 124 nghìn lượt người, tăng 4,9%; Đức 95,7 nghìn lượt người, tăng 7%; Thụy Sỹ 16 nghìn lượt người, tăng 12,1%; I-ta-li-a 29 nghìn lượt người, tăng 10,5%; Hà Lan 26,9 nghìn lượt người, tăng 5,5%.

Khách đến từ Châu Mỹ đạt hơn 375 nghìn lượt người, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ Mỹ đạt 281 nghìn lượt người, tăng 6,7%, Canada đạt 68,1 nghìn lượt người, tăng 4,1%. Khách đến từ châu Úc đạt 163,6 nghìn lượt người, tăng 0,4%, trong đó khách đến từ Ôx-trây-li-a đạt 147,2 nghìn lượt người, giảm 0,3%. Khách đến từ châu Phi đạt 16 nghìn lượt người, tăng 8,3% so với cùng kỳ năm 2018.

7. Một số tình hình xã hội

a) Thiếu đói trong nông dân

Trong tháng Tư, cả nước có 15,4 nghìn hộ thiếu đói, tăng 16,3% so với cùng kỳ năm 2018, tương ứng với 66,8 nghìn nhân khẩu thiếu đói, tăng 18%. Do đang trong thời kỳ giáp hạt nên số hộ cũng như nhân khẩu thiếu đói tăng hơn so với tháng trước. Tính chung 4 tháng đầu năm 2019, cả nước có 43,9 nghìn lượt hộ thiếu đói, giảm 26,1% so với cùng kỳ năm trước, tương ứng với 172,1 nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói, giảm 25,5%. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm, các cấp, các ngành, các tổ chức từ Trung ương đến địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 2,4 nghìn tấn gạo.

b) Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm

Trong tháng Tư, cả nước có 2,9 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 9,5 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (1 trường hợp tử vong);
67 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 46
trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút (4 trường hợp tử vong); 1 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do mô cầu và 413 người bị ngộ độc thực phẩm. Tính chung 4 tháng đầu năm, cả nước có 11,4 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng (1 trường hợp tử vong); 51,5 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (3 trường hợp tử vong); 130 trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút (4 trường hợp tử vong); 7 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do mô cầu và 586 người bị ngộ độc thực phẩm (3 người tử vong). Đáng lưu ý là bệnh sởi có dấu hiệu gia tăng vào thời điểm giao mùa đông xuân, trong tháng 4/2019 (từ 19/3 đến 18/4/2019), cả nước đã phát hiện 5,9 nghìn trường hợp sốt phát ban nghi sởi, trong đó có 942 trường hợp mắc sởi dương tính (1 trường hợp tử vong). Tính chung 4 tháng đầu năm, cả nước có 16,1 nghìn trường hợp sốt phát ban nghi sởi, trong đó 2,2 nghìn trường hợp mắc sởi dương tính (2 trường hợp tử vong). Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến dịch sởi bùng phát là nhiều trường hợp không tiêm phòng sởi hoặc tiêm không đúng lịch quy định.

Tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống tính đến thời điểm 18/4/2019 là 209,2 nghìn người và số trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS là 96,04 nghìn người; số người tử vong do HIV/AIDS của cả nước tính đến thời điểm trên là 98,26 nghìn người.

c) Tai nạn giao thông

Trong tháng (từ 16/3 đến 15/4), trên địa bàn cả nước đã xảy ra 1.423 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 771 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 652 vụ va chạm giao thông, làm 665 người chết, 406 người bị thương và 632 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông tháng Tư tăng 5,7% (Số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên tăng 8,9% và số vụ va chạm giao thông tăng 2,2%); số người chết tăng 4,1%; số người bị thương tăng 14% và số người bị thương nhẹ giảm 3,2%. Đáng lưu ý là trong tháng đã xảy ra một số vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng, vụ tai nạn ngày 13/3 tại Hải Dương giữa tàu hỏa và xe ô tô làm 2 người chết và 3 người bị thương; vụ tai nạn ngày 17/3 tại Nam Định giữa tàu hỏa và xe máy làm 2 người chết; vụ tai nạn xe khách ngày 22/3 tại Hải Dương làm 11 người bị thương; vụ tai nạn ngày 27/3 tại Vĩnh Phúc làm 7 người chết; vụ tai nạn ngày 5/4 tại đường dẫn hầm Hải Vân giữa 2 xe ô tô làm 2 người chết và 3 người bị thương; vụ tai nạn ngày 11/4 tại Bình Định làm 3 người chết và 9 người bị thương.

Tính chung 4 tháng đầu năm 2019, trên địa bàn cả nước xảy ra 5.453 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 2.919 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 2.534 vụ va chạm giao thông, làm 2.570 người chết, 1.615 người bị thương và 2.564 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông trong 4 tháng đầu năm nay giảm 9,4% (Số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 6%; số vụ va chạm giao thông giảm 13,1%); số người chết giảm 7,8%; số người bị thương tăng 2,5% và số người bị thương nhẹ giảm 16,2%. Bình quân 1 ngày trong 4 tháng đầu năm, trên địa bàn cả nước xảy ra 45 vụ tai nạn giao thông, gồm 24 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 21 vụ va chạm giao thông, làm 21 người chết, 13 người bị thương và 21 người bị thương nhẹ.

d) Thiệt hại do thiên tai

Thiên tai xảy ra trong tháng 4/2019 chủ yếu là mưa đá, giông lốc và sạt lở đất tại một số địa phương vùng Trung du miền núi phía Bắc, Nam Trung Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long, làm 2 người chết, 3 người bị thương; 155 ngôi nhà bị sập đổ, 4,4 nghìn ngôi nhà bị tốc mái và hư hỏng; 2,8 nghìn ha lúa và hoa màu bị hư hỏng. Theo báo cáo sơ bộ từ các địa phương, tổng giá trị thiệt hại về tài sản do thiên tai gây ra trong tháng ước tính hơn 89 tỷ đồng. Tính chung 4 tháng đầu năm, thiên tai làm 10 người chết và mất tích, 19 người bị thương; 427 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi; 12,4 nghìn ngôi nhà bị tốc mái và hư hỏng; 7,6 nghìn ha lúa và hoa màu bị hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại về tài sản do thiên tai xảy ra trong 4 tháng ước tính 194 tỷ đồng.

e) Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ

Trong tháng Tư, cơ quan chức năng đã phát hiện 641 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 535 vụ với tổng số tiền phạt gần 9,2 tỷ đồng. Tính chung 4 tháng đầu năm đã phát hiện 3.019 vụ vi phạm môi trường trên địa bàn cả nước, trong đó xử lý 2.662 vụ với tổng số tiền phạt 31,2 tỷ đồng.

Trong tháng 4/2019, trên địa bàn cả nước xảy ra 320 vụ cháy, nổ, làm 14 người chết và 17 người bị thương, thiệt hại về tài sản ước tính 110 tỷ đồng. Tính chung 4 tháng đầu năm nay, cả nước xảy ra 1.277 vụ cháy, nổ, làm 44 người chết và 74 người bị thương, thiệt hại về tài sản ước tính hơn 264 tỷ đồng./.



[1] Giá cá tra hiện dao động từ 24.000-26.000 đồng/kg, giảm từ 3.000-4.000 đồng/kg so với các tháng đầu năm.

[2] Do ngành dầu khí giảm số lượng lao động.

[3] Do một công ty sản xuất linh kiện điện tử sử dụng dây chuyền công nghệ tự động hóa nên giảm số lượng lao động và một công ty sản xuất thiết bị điện làm ăn thua lỗ chuẩn bị giải thể.

[4] Do một số doanh nghiệp sản xuất linh kiện điện tử; đồ chơi trẻ em và sản xuất thép giảm số lượng lao động.

[5] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

[6]So với cùng kỳ năm trước, số doanh nghiệp tăng 2,4%; số vốn đăng ký tăng 25%.

[7] 4 tháng năm 2018, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước; số vốn đăng ký tăng 11,5%; vốn đăng ký bình quân 1 doanh nghiệp tăng 6,8%.

[8] Tốc độ tăng vốn đầu tư từ nguồn NSNN tháng Tư so với cùng kỳ năm trước: năm 2016 là 13,7%; năm 2017 là 6,1%; năm 2018 là 8,6%; năm 2019 là 1,2%. Tốc độ tăng vốn đầu tư từ nguồn NSNN 4 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước: năm 2016 là 11,7%; năm 2017 là 4,4%; năm 2018 là 9,8%; năm 2019 là 3%.

[9] Số dự án cấp mới 4 tháng các năm 2016-2019 lần lượt là: 697 dự án; 734 dự án; 883 dự án; 1.082 dự án. Vốn đăng ký cấp mới 4 tháng các năm 2016-2019 lần lượt là: 5,1 tỷ USD; 4,9 tỷ USD; 3,6 tỷ USD; 5,3 tỷ USD.

[10] Trong đó, Dự án chế tạo lốp xe Radian toàn thép ACTR do nhà đầu tư Trung Quốc đầu tư tại Tây Ninh có tổng vốn đầu tư đăng ký 280 triệu USD.

[11] Tốc độ tăng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 4 tháng các năm 2015-2019 lần lượt là: 10,7%; 10%; 10%; 11,3%; 11,9%.

[12] Do tháng Tư có số ngày làm việc ít hơn (nghỉ Giỗ Tổ và nghỉ lễ 30/4-1/5), bên cạnh đó sản phẩm Galaxy S10 của Samsung đã tập trung xuất khẩu trong tháng Ba.

[13] Tháng Ba ước tính xuất siêu 600 triệu USD.

[14] Trong đó, xuất siêu sang EU đạt 9,1 tỷ USD, giảm 2,3% so với cùng kỳ năm trước; nhập siêu từ Trung Quốc 11,9 tỷ USD, tăng 53,8%; nhập siêu từ Hàn Quốc 9,3 tỷ USD, tăng 0,4%; nhập siêu từ ASEAN 2,4 tỷ USD, tăng 16,3%.

[15] Tốc độ tăng CPI bình quân 4 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước các năm 2017-2019 lần lượt là: 4,8%; 2,8%; 2,71%.

[16] Chủ yếu do giá điện bình quân được điều chỉnh tăng 8,36% từ ngày 20/3/2019 theo Quyết định số 648/QĐ-BCT của Bộ Công Thương nên chỉ số giá điện sinh hoạt tăng 1,85% so với tháng trước; giá gas tăng 1,42%; giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,98%.

[17] Giá thịt lợn giảm 3,07% so với tháng trước do người tiêu dùng còn e ngại dịch tả lợn châu Phi, chuyển sang dùng các loại thực phẩm khác thay thế; giá thủy sản tươi sống giảm 0,18%; giá trứng gia cầm các loại giảm 1,33%; giá rau tươi giảm 0,93% và giá một số loại hoa quả tươi, chế biến giảm; riêng giá thịt bò tăng 0,12%; giá thịt gà tăng 0,48%; giá thịt gia cầm khác tăng 1,35%.


Các tin khác
© Copyright 2012 CỤC THỐNG KÊ TỈNH LÂM ĐỒNG
10 Đường 3 Tháng 4, Phường 3, TP. Đà Lạt